Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2020

BÀI PHÁT BIỂU CỦA ÔNG LÊ THÂN


BÀI PHÁT BIỂU CỦA ÔNG LÊ THÂN
Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng.
Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, bức tượng đài của lòng yêu nước.
Mấy chục năm qua của lịch sử đương đại, mỗi người dân VN trong nước cũng như ngoài nước nhắc đến tên tuổi tướng Nguyễn Trọng Vĩnh đều dâng trào một niềm cảm xúc kính trọng và biết ơn. Ông tướng già có tuổi đời hơn một thế kỷ này, đã thổi vào tâm hồn người VN đang phập phồng lo lắng, đau đớn  về vận nước ở thế hiểm nghèo khi mà kẻ thù là bá quyền Trung quốc đã và đang xâm chiếm biển đảo của tổ quốc, đưa giàn khoan ngang nhiên vào vùng biển chủ quyền của VN thăm dò, ra vào như đi chợ, chúng còn trắng trợn tuyên bố VN đang xâm phạm chủ quyền truyền thống của chúng, vậy mà chính quyền - người được xem là đại diện cho quốc gia VN - lại không dám mở mồn gọi đích danh tên kẻ thù của VN là TQ. Tướng Vĩnh đã liên tục trong nhiều năm, kiên trì, đanh thép  vạch trần lên án những thủ đoạn đó của TQ. Như người khát nước, nhân dân VN uống từng giòng nước mát từ những lời thống thiết của Tướng Vĩnh. Mặt khác, thái độ “uy vũ bất năng khuất” của tướng Vĩnh đã bác bỏ những “luận điệu” của nhiều tướng lĩnh sĩ quan, trí thức mày râu ở nước ta tự “bào chữa” rằng, mình về hưu rồi, già rồi “lực bất tòng tâm” nên mũ ni che tai, mọi việc đã có “Đảng và nhà nước lo”.... Hãy nghe Cụ làm thơ lúc 95 tuổi.
                 Còn hơi còn sức còn lên tiếng 
                 Là muốn quyền uy bớt lỗi lầm.
Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh sinh năm 1916 trong một gia đình nhà nho nghèo ở Thanh Hóa. Ông mồ côi mẹ từ năm 1 tuổi, tuổi thơ vô cùng cực khổ nhưng được bố cho đi học đến hết bậc tiểu học (primaire) thời Pháp. Ông tham gia cách mạng 1937, vào Đảng CS Đông Dương năm 1939, năm 1945 đã là chủ tịch ủy ban nhân dân cách mạng huyện Đông Anh tỉnh Phúc Yên.Bí thư tỉnh ủy Phúc yên 1946, bí thư tỉnh ủy Thái Bình 1947. Trải qua nhiều cương vị lãnh đạo, năm 1954 là chính ủy Quân khu 4. Năm 1959 đã được thăng quân hàm thiếu tướng. Từ năm 1960 đến 1976 là ủy viên dự khuyết trung ương Đảng khóa 3, năm 1961 là phó ban tổ chức trung ương, từ 1961 đến 1964 là bí thư tỉnh ủy Thanh Hóa, sau đó được cử sang Lào làm cố vấn cho chính phủ Lào. Từ 1974 đến 1987 là đại sứ đặc mệnh của VN tại Trung Quốc kiêm nhiệm đại sứ đặc mệnh tại Pakistan. Thời gian đó TQ đánh sang VN (1979), ông đã có nhiều đóng góp lớn để chống lại xâm lược của TQ trên mặt trận ngoại giao. Năm 1990 ông nghỉ hưu tham gia hội cựu chiến binh VN với cương vị phó chủ tịch hội.
Cuộc đời của tướng Vĩnh từ lúc mồ côi mẹ năm 1 tuổi đến lúc ngoài trăm tuổi  như một pho tiểu thuyết  hoành tráng có không gian  mênh mông, thời gian thăm thẳm với biết bao thăng trầm đầy biến động!
Là đại sứ đặc mệnh toàn quyền VN tại TQ 13 năm, ông thấu hiểu, nhìn rõ tâm địa bá quyền của TQ. Vì thế, ông chống sự lũng đoạn của Bắc Kinh vào hậu trường chính trị ở VN sau này . Ông lên tiếng thường xuyên về những vấn đề chính trị xã hội của đất nước . Chống lại dự án khai thác Boxite ơ Tây nguyên, chống lại cưởng chế đất  đai ở Tiên Lãng, Văn Giang....Hãy nghe những lời của ông nói về những vụ cướp đất: vô đạo đức, tàn ác dã man này không còn tính người nửa hay sao?”. Ông cũng là đảng viên đề nghị phải thành lập Ban giám sát Đảng Cộng Sản VN độc lập với ban kiểm tra trung ương Đảng.
Một điều ít người biết, tướng Vĩnh là người đọc tiểu thuyết “Thép đã tôi thế đấy bằng tiếng  Pháp. Ông tự học và thông thạo tiếng Anh, ông tự học và nói chuyện được với Hoàng thân Souphanuvong bằng tiếng Lào, ông tự học và nói chuyện được với người TQ bằng tiêng Hoa.... Ông là  người suốt đời tự học và với nền tảng trí thức đó, ông hiểu rằng chỉ có dân chủ mới canh tân được đất nước. Đảng cầm quyền chỉ có cải cách chính trị mới thoát khỏi “sai lầm và  thất bại của đường lối xây dựng CNXH theo chủ nghĩa Mác Lênin.”  Đó là nguyên văn lời lẽ trong các kiến nghị mà ông cùng nhiều đảng viên và trí thức tên tuổi đã ký trong Các văn  bản ngày 28 tháng 7 năm 2014 và ngày 9 tháng 12 năm 2015... gởi cho nhà cầm quyền.
Gần 100 triêu người Việt trong và ngoài nước nghiêng mình kính cẩn trước anh linh Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh. Vị tướng tài ba, can đảm mà từng nhịp đập trái tim, từng hơi thở từng ngày sống đề hiến dâng  cho tổ quốc VN suốt chiều dài thế kỷ. Ông là  con người sống cho đến phút chết, không chịu chết khi đang còn sống!
Vĩnh biệt Tướng Vĩnh, chúng tôi thề sẳn sàng đương đầu với mọi kẻ thù xâm lược, cho dù chúng là siêu cường hay siêu cuồng.
06/1/2020

ĐIẾU VĂN CỦA CỤ NGUYỄN KHẮC MAI

Điếu văn: Viếng Lão Tướng Nguyễn TrọngVĩnh

Hởi ôi! Lão Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh đã từ biệt chúng ta. Cụ sinh năm 1916, tạ thế ngày 26 tháng12 năm 2019 đúng tròn 104 tuổi.

Cụ đã sống trọn hơn 80 năm của thế kỹ XX và hai thập kỹ đầu của TK.XXI. Cụ đã là một chứng nhân lịch sử trong một thời đại bi hùng của nước ta, đã là hình mẫu của một thế hệ thanh niên, Nước non đang chờ trong tay ngươi. Hồn sông núi tiếng vang ghi muôn đời.

Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo. Từ nhỏ cụ đã phải lăn lộn kiếm sống, từng phải đi ở đợ lấy tiền giúp cha đóng thuế. Mãi đến năm 15 tuổi Cụ mới được chuộc về cho đi học. Cụ sáng dạ và có chí, lai được các Cô giáo Thầy giáo và cả chế độ nhà trường thông thoáng, nên bậc học 6 năm cụ đươc nhảy lớp và chỉ học trong ba năm, thi đổ bằng cao đẳng tiểu học. Bấy giờ ở bậc học này chưong trình khá toàn diện, đức trí thể mỹ, học tiếng pháp, có cã chữ nho. Đó là vốn liếng tri thức đầu đời rất quan trọng, để cùng với ý chí học tập suốt đời, cùng với phương châm coi trọng khảo sát, coi trọng sự suy nghĩ của riêng mình, để cụ có một phẩm chất tinh thần và trí tuệ đáng kính phục. Lên 15, 16 tuổi đã biết nghĩ về tình hình mất nước vào tay người Pháp, đã nhen nhóm ý tưởng cách mạng, tinh thần yêu nước thương nòi,tiếp cận với thơ ca yêu nước, như thơ của Á Nam Trần Tuấn Khải.

“Đêm khuya canh đã hầu tàn,
Anh ơi ngồi dậy để em than mấy lời.
Sự tình cực lắm anh ơi,
Nước non gánh nặng,cuộc đời có biết không?...”

Hoặc:

Phải nên thương lấy giống noì,
Đừng ham phú quý mà nguôi tất lòng.…..
Mấy trang hào kiệt xưa kia,
HY sinh thân thế cũng vì nước non.….
Làm trai hồ thỉ tứ  phương,
Sao cho khỏi thẹn với gương Lạc Hồng.”

…“Những câu thơ đã khiến tâm hồn của người thanh niên đang độ hăng say nhịp sống như tôi đó, không thể không chấn động, không thể không thấy máu huyết sôi lên “Cụ từng làm nghề in, và ở đó cụ gặp nhưng chiến sĩ cách mạng thế hệ đầu tiên, như Trần Đăng Ninh, Lương Khánh Thiện, Trường Chinh… Cụ hăng say tham gia cách mạng, biểu tình, rãi truyền đơn, đình công, lập nghiệp đoàn… Cụ từng bị thực dân Pháp bắt đầy đi Đắc tô. Nhật đảo chính cụ được thả ra, lại tiếp tục hoạt động. Cụ từng làm Bí thư huyên Đông Anh, Bí thư tỉnh Phúc yên.

Cách mạng là cuộc điên đảo lịch sử, rung trời chuyển đất, nhưng với cụ, cụ đã gặp được người ,mà mình sẽ gá cuộc trăm năm. Cụ đã gặp bà An khi hai người cùng đi hoạt động bí mật và họ đã yêu nhau.Cụ kể lại, chả có cưới xin gì, mà chúng tôi đã sống với nhau đến “đầu bạc răng long”.

Cụ từng đãm nhận các chức vụ như Bí thư tỉnh ủy Phúc yên, Thái bình, Thanh hóa, Phó Ban Tổ chức Trung ương, làm Trưởng Đoàn Cố vấn giúp Lào, từ năm 1964 đến 1973. Tuy nhiên 13 năm làm Đại sứ ở Trung Quốc mới thực sự là  cuộc thử thách phẩm chất Nguyễn Trọng Vĩnh.

Cụ kể: Làm Đại sứ ở TQ trong những năm họ khiêu khich và biến Việt Nam thành kẻ thù, đành rằng rất căng thẳng, nhưng với tôi không chỉ có vất vả gian khổ. Cũng có những khi được “đắc ý”. Ấy là niềm vui sau những cuộc đấu lý với Trung Quốc buộc họ phải “rút dù”.

Cụ cũng từng vào quân đội, tham gia nhiều chiến dich, giữ nhiều chức vụ quan trọng, cũng băng rừng lội suối, cơm nắm, rau rừng, có thời “trứng rận trắng áo len”. Năm 1959, Cụ được phong Thiếu tướng, Cụ tự hào luôn sâu sát hiểu được cán bộ. Nên đã bảo vệ được nhiều người tài, như trường hợp Phạm Hồng Sơn vốn là sinh viên tham gia quân độ, bị “Đòan ủy CCRĐ” gởi công văn đòi đưa về địa phương đấu tố. Cụ đã báo cáo Chủ nhiệm TCCT bảo vệ được cán bộ. Phạm Hồng Sơn sau là Trung tướng.

Năm 1990, hai năm sau khi làm Đai sứ Trung quốc trở về ở tuổi 74 Cụ mới nghỉ Hưu. Tuy Hưu mà Cụ không hề nghỉ. Cụ tham gia tổ chức Hội người Cao tuổi cùng với GS Phạm Khuê, Cụ lại tham gia tổ chức Hội Cựu chiến binh, tham gia Hội Chữ thập đỏ ở Phường, đóng góp làm từ thiện. Không như nhiều cán bộ cao cấp bám hội để tự vinh danh, cụ lập xong là về không tiêp tục giư bất cứ chức vụ nào!

Người xưa nói Lão giả an chi (Đã già thì ngơi nghỉ.) Ở vào tuổi siêu xưa nay hiếm, Cụ vẫn theo dõi tình hình Đất Nước, tình hình Đảng. Cụ viết hàng trăm thư ngõ, kiến nghị, bài phân tich, nhận dịnh tình hình đối nội, đối ngoại. Cụ nêu chủ kiến của mình thẳng thắn, công khai, tâm huyết, thiện ý. Về những vấn đề trọng đại của Đất nước, của xã hội như:

Hãy từ bỏ chủ nghĩa Mác Lê nin và đường lối cncs, cnxh, định hướng xhcn sai lầm, vô vọng, tội lỗi.

Hãy sữa chửa đảng thành đảng dân tộc, dân chủ, tôn trọng ý kiến phản biện,thi hành dân chủ trong đảng… từ bỏ tư cách đảng cai tri, độc tài toàn trị, trở về với tư cách đảng lãnh đạo,tôn trọng nhân dân, tôn trọng trí thức…

Phát triển nền kinh tế tự cường,tự chủ. Tăng cường quốc phòng chống Trung Quốc bành trướng xâm lược. Cụ yêu cầu sửa chửa những sai lầm trong quan hệ kinh tế với Trung Quốc như bauxit Tây nguyên. Formosa, cho Trung quốc thuê đất ở bien giới, làm đặc khu, cảnh giác với những dự án kinh tế liên quan đến Trung Quốc…

Cụ hoan nghênh, tôn trọng những người trẻ có kiến thức có tâm huyêt đấu tranh, mong ước nước ta có nền kinh tế lành mạnh,có môi trường sạch sẽ, có tự do, dân chủ, tiếng nói của mọi người dân được tôn trọng,chính quyền trong sạch, không hèn với giặc, ác với dân… Giới trẻ coi cụ như một cổ thụ, chỗ dựa tinh thần cho mình.

Riêng với Trung Quốc, Cụ thật sự đã “đi guốc trong bụng họ”. Cụ khẳng định Trung Quốc giúp ta đánh Pháp, chống Mỹ cũng là vì lợi ích của họ. Cụ cảnh báo, phê phán hành động xâm lấn biển đảo của ta, gây sức ép về quân sự, nhiều lần hù dọa chiến tranh để lung lạc tinh thần và ý chí của lãnh đao VN. Cụ nói rõ,” môt ngàn năm nữa Trung hoa cẫn chưa thay đổi tư tưởng bành trướng nước lớn”. Đối sách với Trung Quốc phải là: Kiên quyết bảo vệ Độc lập và chủ quyền của Đât nước, phải thật sự dân chủ để làm thế trận lòng dân,chống việc bắt bớ giam cầm những người yêu nước chỉ vì chống Đai hán xâm lược, có chính sách đúng đắn làm cho Tổ quốc vững mạnh và phát triển, dân no đủ, có dân chủ tự do hạnh phúc, thật sự chống tham nhũng, loại bỏ những cán bộ đương chức đương dương quyền cơ hội thoái hóa, cần một ban lãnh đạo gương mẫu có tầm nhìn xa, trong sạch, có lòng tự tôn dân tộc, dũng khí thật lòng vì dân vì nước, phải, tăng cường quốc phóng nhất là Hải quân; hợp tác với bạn bè bốn phương ủng hộ ta chống Đại Hán xâm lược, Kiện Trung quốc ra Tòa án Quốc tế…

Cụ là tấm gương về một nhà cách mạng chân chính. Cụ là mẫu hình của một thế hệ trẻ của một thời kỳ nước sôi lửa bỏng chống thực dân và đế quốc xâm lược, ôm ấp hoài bảo “Tiến lên nền Dân chủ cộng hòa”, Lập Quyền Dân, tiến lên Việt Nam”, là những khẩu hiệu văn hóa trong những khúc ca hùng tráng.

Cụ là kết tinh của một nền văn hóa, một thời đã đi không trở lại, của những phẩm chất nho gia quý giá với một nền học vấn đậm chất phương Tây mới mẻ. Cụ là hiện thân của môt tinh thần “Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”, suốt đời đau đáu một tấm lòng chân thật vì dân vì nước. Là con Người, cụ cũng có những kỷ niệm trữ tình lãng mạn, đẹp. Hơn thế,cụ là người con trung hiếu,trong một gia phong cổ kính, ăm ắp tình yêu thương, trách nhiệm.

Cụ để lại cho chúng ta biết bao nét đẹp tinh thần, biết bao những kinh nghiệm đối nhân xử thế. Thật sự Cụ là con người của Minh Triết Việt.

Cụ làm nhiều thơ, có lẽ bài thơ “Quý Mùi Tự Bạch”, là hình ảnh gửi lại cho chúng ta:

“Tuổi thọ trời cho ngót chín mươi,
Mức sống dân cho cũng đủ rồi.
Con cháu thăm nom tròn đạo hiếu,
Bạn bè qua lại ấm tình người.
Uống ăn khoa học người còn khỏe,
Chơi tập điều hòa sắc vẫn tươi.
Nợ nước, ơn dân đền cũng tạm,
Lòng còn nhức nhối nỗi lo đời…!

Hình ảnh Cụ và những bài học làm người, làm người công dân có trách nhiệm còn mãi trong Tâm trí chúng Ta. Xin có đôi câu đối kính viếng CỤ:

Trọng Đôc lập, trọng Dân Quyền, Trung Hiếu, gương soi một thuở,
Vĩnh biệt tiễn đưa, Vĩnh hằng cõi ấy, An nghỉ ngàn Thu.

Cẩn bút, Nguyễn Khắc Mai./.

LÃO TƯỚNG, NHÀ NGOẠI GIAO KỲ CỰU NGUYỄN TRỌNG VĨNH ĐÃ VỀ AN NGHỈ BÊN CẠNH SỨ THẦN ĐẠI VIỆT GIANG VĂN MINH Ở ĐƯỜNG LÂM



Theo lời dặn của Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh,  gia đình đã không an táng Cụ tại nghĩa trang Mai Dịch mà hỏa táng và an táng Cụ ở nghĩa  Nhân dân rồi đưa cả Cụ bà từ Mai Dịch về đó.
Thực hiện ý nguyện của Cụ, sáng ngày  05/1/2020 gia đình và các thân hữu của Cụ đã an táng
ngọc cốt của Cụ tại nghĩa trang ở xã Đường Lâm, Sơn Tây.
Cùng với các con cháu Cụ, thấy nhiều nhân sĩ, trí thức có mặt từ 7h sáng: Cụ Nguyễn Khắc Mai, GS Chu Hảo, Nhà văn Hoàng Quốc Hải, Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng, Nghệ sĩ Ưu tú Kim Chi, TS. Phạm Gia Minh, TS Phan Xuân Đại, Ông Lê Thân (chủ nhiệm CLB Lê Hiếu Đằng), ông Nguyễn Quang Khuê, Nhà giáo Vũ Mạnh Hùng, Nhà báo Lê Dũng VoVa, TS Nguyễn Xuân Diện, Phùng Văn Duân, Mạc Văn Trang... cùng nhiều gương mặt trẻ mến mộ Cụ…
Dưới đây là bài tường thuật của TS NGUYỄ XUÂN DIỆN:
Quách hài cốt Lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh được rước vào khu mộ, khi đi qua Lăng mộ Thám hoa Giang Văn Minh đã hạ thấp 3 lần để cúi chào Sứ thần Đại Việt Giang Văn Minh.
Sau khi đặt quách Lão tướng lên trên thành mộ, các nhân sĩ trí thức và gia đình đã dâng hương và khấn cầu trước mộ Thám hoa Giang Văn Minh. Cụ Nguyễn Khắc Mai khăn đóng áo dài dâng hương và dâng lời cầu nguyện trước mộ. Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện đọc và giải nghĩa hai đôi câu đối và nhắc lại khí phách lẫm liệt của Thám hoa Giang Văn Minh trước triều đình Trung Quốc.
Ngọc cốt của Lão tướng được an táng bên cạnh Sứ thần Giang Văn Minh tại xứ đồng Gò Đõng, làng cổ Đường Lâm.
Trước khi hạ huyệt, Cụ Nguyễn Khắc Mai quỳ ba lạy và đứng lên đọc bài tiễn biệt, sau đó là Ông Lê Thân (Chủ nhiệm CLB Lê Hiếu Đằng) quỳ 3 lạy và nói lời cầu chúc Lão tướng yên nghỉ trong niềm kính tiếc của cháu con và các thế hệ hậu sinh.
Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện được gia đình cụ trao cho khăn như một đứa cháu cụ, quỳ trước mộ thỉnh hồn phách Lão tướng nhập mộ yên nghĩ vĩnh hằng.
Toàn văn như sau:
Kính thưa Anh linh Lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh,
Hôm nay, đông đảo con cháu, họ hàng thân tộc, chiến hữu và lớp lớp hậu bối của Lão tướng rước ngọc cốt của Lão tướng về ngôi nhà mới – ngôi nhà cuối cùng của hành trình 104 năm và là ngôi nhà vĩnh cửu của Người.
Dẫu biết rằng trong kiếp nhân sinh, ai cũng sinh từ cát bụi rồi lại trở về với cát bụi. Dẫu biết rằng, tinh thần của Lão tướng sẽ còn mãi với non sông đất nước. Nhưng trần gian vẫn mong được gìn giữ mãi ngọc cốt của Người, và nơi đây đã được chọn làm nơi sum họp của cả âm dương hai cõi, trong tưởng nhớ và biết ơn Người.
Khi Lão tướng lâm bệnh, Trưởng nữ của Lão tướng cùng anh em thân hữu đã đến dâng hương Mộ Thám hoa Giang Văn Minh để xin cho Lão tướng về đây, cùng nương bóng Tản Viên Sơn linh thiêng và hùng vĩ – nơi ngự trị của Đệ Nhất Phúc Thần Tản Viên Sơn Thánh. Lời cầu nguyện ấy đã được linh ứng ngay khi nén nhang thơm vừa tỏa khói trong một chiều nơi Đường Lâm cổ ấp Nhân kiệt Địa linh.
Công việc xây cất được người dân sở tại nhanh chóng triển khai và gấp rút hoàn thành để đón Lão tướng. Đến hôm nay, Người đã về đây, trong cỗ quách do Cơ sở sản xuất quách gốm cao cấp Vạn Linh An ở Bát Tràng dâng tặng. Bộ quách khi chế tác có chút đất thiêng lấy từ Yên Tử để thêm an diệu. Năm cây Tùng hộ vệ phía sau và 2 cây đại ngả cành phía trước mộ được đưa về từ đồng đất Văn Giang.
Từ nay, chúng con Cầu xin Người hãy đời đời yên nghỉ ở ngôi Phúc địa này. Gối đầu lên dãy núi Tản Viên Sơn hoàng hôn đỏ rực cuối trời, trong mênh mông của miền Tản Lĩnh - Đà Giang oai linh và thơ mộng.
Trước mặt, là một hồ nước rợp hạc trắng tụ về, làm nội minh đường. Xa xa hai con sông: Tích Giang và Hồng Hà làm ngoại minh đường quanh năm thao thiết chảy.
Phía tả là Văn Miếu tỉnh Sơn Tây nơi tiên hiền tụ họp, luận bàn văn chương và thế sự. Bên hữu là Di chỉ Khảo cổ học Làng Và còn vọng tiếng rì rầm ngàn thuở cha ông.
Xa xa, Bên hữu là Đông Cung Đền Và nơi Tam Vị Đại Vương Quốc Chúa Tản Viên Sơn Thánh thiết triều. Bên tả là làng cũ của hai vua Phùng Hưng và Ngô Quyền khói hương nghi ngút.
Lăng Ngô Vương còn đấy, uy nghi giữa muôn trùng đồi núi.
Rặng ruối còn kia, ngựa voi dừng bước nghỉ chân.
Và kề bên là Lăng mộ Thám hoa Giang Văn Minh vị sứ thần đã làm rạng danh Đại Việt vào dịp tuế cống nhà Minh năm 1638. Phía xa xa, giữa cánh đồng kia là Quán Giang, nơi đón linh cữu Thám hoa đi sứ trở về thưở trước.
Chuẩn tắc phong thủy, nhân kiệt địa linh,
Đủ khắp giang sơn, anh hùng thiên cổ.
Xứ Đoài mây trắng đã đón Người về.
Đường Lâm cổ ấp xin gìn Ngọc cốt.
Xin Lão tướng hãy thanh thản,
Phiêu bồng trong mây trắng xứ Đoài.
Dạo khắp non cao, đèo thẳm, sông dài…
Chống gậy trúc thăm đền đài cổ tích
Vỗ tay reo gọi hạc mời trăng….
Xin dâng lời cầu nguyện anh linh Lão tướng yên nghỉ đời đời bên các bậc Anh hùng Đại Việt và phù hộ cho Đất nước vững mạnh và trường tồn. Phù hộ cho đời đời con cháu vạn phúc vạn an. Phù hộ cho lớp lớp hậu bối thêm khôn thêm mạnh.
Giờ lành đã điểm. Chúng con xin gửi Ngọc cốt Người vào lòng đất Đường Lâm.
Nguyện xin hồn phách Lão tướng hãy nhanh nhập mộ để tiếp ứng khí thiêng của đất trời Xứ Đoài muôn phần hiển ứng.

CỤ NGUYỄN TRỌNG VĨNH ĐÃ RA ĐI!


Mới tuần trước Cụ khỏe lại, ngồi dậy, đung đưa chân, vui vẻ… Chiều qua, mấy anh chị em ngồi ở nhà Cụ còn bàn, cứ để Cụ ở trong Viện, không nên đưa Cụ về ăn Tết, vì không có điều kiện chăm sóc tốt bằng ở BV. Vẫn hy vọng Cụ đón Năm mới 2020 và Tết Canh Tý với con cháu, bạn bè…
Thế mà Cụ đột ngột ra đi lúc 4h43 phút sáng nay, 26/12/2019 (1/12/ năm kỷ Hợi), hưởng Đại thọ 104 tuổi.
Lòng tương tiếc Cụ biết bao nhiêu, thì cũng tự hào bấy nhiêu về đất nước ta, dân tộc ta có những người con như Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh.
Cụ trải qua một tuổi thơ vô cùng gian khổ, nhưng nỗ lực vượt qua tất cả, chịu khó học hành trong sách vở và trong cuộc sống để vươn lên làm một CON NGƯỜI có Trí tuệ tuyệt vời, có Kiến thức sâu rộng, có ý chí kiên cường, hết lòng vì Dân vì Nước cho đến tận những ngày cuối cùng của cuộc đời.
Có lẽ gian khổ và oanh liệt nhất là thời kỳ Cụ làm ĐẠI SỨ VIỆT NAM TẠI TRUNG QUỐC suốt 13 năm (từ 1974 đến 1987), thời kỳ Trung cộng đã đi đêm với Mỹ, bán rẻ Việt Nam để đổi lấy những món hời làm ăn với Mỹ; thời kỳ Trung cộng mượn Khơ me đỏ đánh phá Việt Nam, rồi trực tiếp đem mấy chục vạn quân xâm lược nước ta và tuyên truyền xuyên tạc, xấc xược: “Dạy cho Việt Nam bài học”(?)…
Suốt thời kỳ đó Nhà ngoại giao Nguyễn Trọng Vĩnh sống trong lòng địch đúng nghĩa, phải đối phó với trăm mưu nghìn kế, kể cả những trò hèn, bẩn của Tàu khựa, nhưng Cụ luôn giữ tư thế của người đại diện cho Việt Nam đương đầu với Trung quốc một cách đầy bản lĩnh, không bao giờ sợ sệt, chịu khuất phục, để chúng làm nhục quốc thể, hay có thể lung lạc, sai khiến, làm mất nhân cách của Nhà ngoại giao…
Về cuối đời tưởng được an nhàn thì Cụ lại phải xông vào trận chiến đấu mới: Phản biện những sai lầm của Đảng CSVN trong chiến lược, đối sách với Trung cộng. Cụ là người dày công nghiên cứu về Trung quốc, hiểu sâu sắc về Trung cộng, đã từng làm cho mấy GS “Trung quốc học” của Mỹ phải tâm phục, khẩu phục…
Về đường lối, chính sách đối nội của Đảng CSVN và Nhà nước này, Cụ đã có hàng trăm bài viết “góp ý”, “phê phán”, “kiến nghị”… Riêng tập “Phải trái Sự đời” đã tập hợp in hơn 100 bài viết của Cụ từ 2004 đến 2015. Còn từ 2016 đến 2019 chưa xuất bản.
Mở đầu cuốn sách này, Cụ viết câu thơ:
“Còn hơi, còn sức còn lên tiếng
Là muốn quyền uy bớt lỗi lầm”.
Đây là những gì Cụ viết vào giai đoạn từ 90 tuổi trở đi, mà nhiều bài viết có tầm minh triết, tư duy mạch lạc, phân tích sắc bén, dẫn chứng cụ thể, đầy thuyết phục.
Hôm nay Cụ Vĩnh đã thanh thản về cõi Vĩnh hằng, hoàn thành vẻ vang sứ mệnh của một vị Tướng tài ba, một Nhà Ngoại giao xuất sắc, một Công dân kiểu mẫu...
“CÁI CÒN LẠI” của Cụ không phải là những tấm Huân chương, Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng … mà là những bài viết Góp ý, Phản biện nóng bỏng Thời sự, chứa chan lòng Yêu Nước, Thương Dân, đầy Trí tuệ sắc bén, và một Nhân cách sống giản dị, thanh cao vẫn sống động lan tỏa trong xã hội hôm nay và truyền cảm hứng cho các thế hệ nối tiếp dấn thân vì Độc lập của Tổ quốc, Tự do, Dân chủ, Hạnh phúc cho Nhân dân.
26/12/2019
Mạc Văn Trang


THĂM CỤ VĨNH và NGẪM NGHĨ...


THĂM CỤ VĨNH VÀ NGẪM NGHĨ…

Chiều qua cùng chị Kim Chi và anh Lê Thân vào thăm cụ Nguyễn Trọng Vĩnh trong BV Hữu Nghị. Cụ sống nhờ truyền dinh dưỡng và ô-xy, nhưng tai vẫn nghe được và Não vẫn hoạt động tốt đấy nhé!  Hỏi cái gì ưng, Cụ gật gật; hỏi cái gì không ưng, Cụ lắc  đầu nguầy nguậy. Nhìn Cụ thương quá!
Nhưng nghĩ, cuộc đời 104 tuổi của Cụ quá tuyệt vời rồi. Giờ Cụ ra đi vào CÕI NGƯỜI HIỀN, cũng thật là mỹ mãn, linh diệu…

Trước khi vào Viện, gặp chị Nguyễn Nguyên Bình, con gái Cụ tại nhà riêng của Cụ, được chị tặng 2 cuốn sách: “KỂ LẠI CUỘC ĐỜI”- Hồi ức của Cụ Vĩnh và cuốn “PHẢI TRÁI SỰ ĐỜI”, tập hợp hơn 100 bài viết phản biện của Cụ từ 2004 dến 2015 (Những bài phản biện từ 2016 đến 2019 chưa xuất bản). Mở đầu cuốn này, Cụ viết câu thơ:
“Còn hơi, còn sức còn lên tiếng
Là muốn quyền uy bớt lỗi lầm”.

Trời đất ạ, đây là những gì Cụ viết vào giai đoạn từ 90 tuổi trở đi, mà nhiều bài viết có tầm minh triết, tư duy mạch lạc, phân tích sắc bén, dẫn chứng cụ thể, đầy thuyết phục.
Đặc biệt, mới đọc được Chương I: “Thời niên thiếu” trong cuốn KỂ LẠI CUỘC ĐỜI”, thấy Cụ nhớ lại từng chi tiết từ lúc 5-6 tuổi cho tới năm 18 tuổi , thật khâm phục. Xin tóm tắt đôi nét về thời Thơ ấu của Cụ.

Nguyễn Trọng Vĩnh mồ côi Mẹ lúc 1 tuổi. Dì ruột thương Vĩnh mới 1 tuổi và anh Thọ, anh trai Vĩnh 4 tuổi bơ vơ, nên lấy bố Vĩnh, làm Mẹ kế. Bố vĩnh một ông Đồ xứ Thanh Hóa, chả biết làm gì, ngoài dạy chữ Nho, nên nhà nghèo túng quanh năm. Bố đi dạy học mãi Kiến An, Vĩnh ở quê, lúc 6 tuổi được bác dạy cho chữ Nho, hết cuốn Tam tự kinh và Tam Thiên tự… Năm Vĩnh 8 tuổi, bố đón 3 mẹ con lên Hà Nội, ở nhờ nhà bà con. Bố vẫn đi dạy học ở Kiến An, nhưng chỉ đủ nuôi thân là chính. Ba mẹ con xoay xỏa nuôi nhau. Vĩnh và anh hàng ngày đi bán bánh mì dạo (lúc đó gọi là bánh Tây)…

Năm Vĩnh lên 9, bố bị xã gọi về đóng thuế Thân, 2 đồng rưỡi 1 suất. Bố không có tiền đóng thì bị bắt, còn bị hành hạ… Thế là đành bán Vĩnh cho một nhà ở Hà Nội lấy 6 đồng, bên ngoài gọi là “con nuôi”.  6 năm thực chất là đi ở, phục vụ mọi người, mọi việc trong nhà này vô cùng vất vả, cực nhọc. Nhưng Vĩnh rất chịu khó, tinh nhanh, nên mọi việc đều vượt qua. Có một bà cô trong nhà rất thương quý Vĩnh, cho tiền để Vĩnh lén đi học chữ quốc ngữ, về đọc chuyện cho bà nghe… Mãi năm Vĩnh 15 tuổi (1929), cha mới dành đủ 6 đồng, đến chuộc Vĩnh, đưa về quê, để đi học trường Cao đẳng Tiểu học của Tây. Vĩnh người cũng nhỏ, khai rút tuổi xin vào lớp Năm (lớp 1). Lên lớp Tư, thấy Vĩnh học giỏi quá, nên cô giáo xin cho lên lớp Ba, sau đó lên Nhì, lớp Nhất. Vĩnh luôn đứng số 01. Trong những năm ở quê một mình đi học, bố gửi cho mỗi tháng 01 đồng rưỡi để “tự túc”, tiền học không phải đóng…

Hết lớp Nhất, thi tốt nghiệp Cao đẳng Tiểu học, Vĩnh phải cơm nắm muối vừng đi bộ từ nhà lên Tỉnh lị Thanh Hóa 44km mất 1 ngày rồi thi 2 ngày...
Ở tuổi 90 Cụ nhớ lại, giáo viên rất giỏi, tận tâm, công bằng, các môn học ít thôi, nhưng có ích cho suốt cuộc đời, nhất là môn tiếng Pháp, được dùng từ lớp Ba, rất hữu ích cho công việc sau này…

Có mấy chuyện vui vui. Hồi học lớp Nhì, Vĩnh đã được một gia đình khá giả mới về dạy cho mấy con trong nhà. Có cô bé 13 tuổi con ông chủ đã mê “thầy”. Hai bên “tình trong như đã, mặt ngoài còn e”…

Lúc Vĩnh đang học năm cuối, vừa 18 tuổi, ông bác mai mối, đưa Vĩnh sang nhà Chánh tổng giàu có để gán ghép lấy con gái Chánh tổng, may quá, cô ta không ưng. Sau mới biết cô này đang mang thai hoang. Hú vía!
Nhưng sau khi Vĩnh tốt nghiệp, bố Vĩnh gọi ra Hà Nội, thế là phải chia phôi mối tình đầu với cô bé 13…

Cụ Vĩnh nhớ lại, lúc đi học, học sinh Tiểu học đã bàn luận về chính trị, biết có những Hội kín hoạt động yêu nước; đã truyền tay nhau đọc những bài thơ văn của các Chí sĩ kêu gọi yêu nước, “gây chấn động”, “sôi máu trong huyết quản”…
Đó cũng là men say để chàng trai Vĩnh sớm tham gia vào các phong trào yêu nước, cách mạng, mà Trái tim và Tâm hồn luôn vang vọng lời Phi Khanh dặn Nguyễn Trãi, Vĩnh đọc từ năm Tiểu học:

…“Con đang độ đầu son tuổi trẻ
Bước gian nan há kể nhường ai
Phải nên thương lấy giống nòi
Đừng ham phú quý mà nguôi tấc lòng
Thời thế có anh hùng là thế
Chữ vinh hoa, xá kể làm chi
Mấy trang hào kiệt xưa kia
Hy sinh thân thể cũng vì nước non”…

Những dấu ấn từ thuở niên thiếu ấy cứ in đậm mãi trong tâm khảm suốt quá trình hoạt động sau này, cho đến trên 100 tuổi, vẫn chỉ một lòng vì Dân, vì Nước, bất chấp vinh hoa mua chuộc hay nguy nan đe dọa.

Cụ Vĩnh sẽ thanh thản về cõi Vĩnh hằng. “CÁI CÒN LẠI” của Cụ không phải là những tấm Huân chương, Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng … mà là những bài viết Góp ý, Phản biện nóng bỏng Thời sự, chứa chan lòng Yêu Nước, Thương Dân, đầy Trí tuệ sắc bén, và một Nhân cách sống giản dị, thanh cao, đáng nêu gương cho những người tử tế.

02/12/2019
Mạc Văn Trang


Thứ Năm, 20 tháng 2, 2020

Những suy ngẫm về cuộc đời được viết bằng những vần thơ

Còn hơi còn sức còn lên tiếng
Là muốn quyền uy bớt lỗi lầm

Ngày tưởng niệm....

Họp mặt tưởng niệm...

Những thước phim tài liệu liên quan đến cụ Vĩnh

Phim tài liệu

Những tấm ảnh về cuộc đời cụ Vĩnh

Ảnh thờ kỳ hoạt động ở Lào....

Những bài viết về Nguyễn Trong Vĩnh

Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh

Chương I tác phẩm "Kể lại cuộc đời"


CHƯƠNG I

THỜI NIÊN THIẾU

Quê tôi ở làng Thổ Phụ tổng Cao Mật, nay là xã Vĩnh Tiến huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hoá. Làng ở gần bờ sông Mã, bên cửa Tây Thành nhà Hồ. Quê tôi có núi, có sông, có thành, kể ra thì cũng thật là đẹp. Nhưng từ khi sinh ra đến khi rời khỏi làng đi “tha phương cầu thực", tôi đầu có thì giờ để ngắm núi ngắm sông, để thưởng thức vẻ đẹp quê hương mình. Nhà tôi nghèo lắm, có ít ruộng công làng vừa chia cho đã vội phải đem cầm cố để lấy tiền ăn. Mẹ tôi mất khi tôi chưa đầy một tuổi, bà ngoại và các dì phải đưa tôi đi bú rình, hoặc cho ăn nước cháo loãng. Vì ăn uống thiếu chất như thế nên đã có lần tôi bị chết lả, may mà còn cứu lại được. Mẹ đẻ tôi tên húy là Trịnh Thị Hận, bà có người em gái tên là Trịnh Thị Đm, lúc đó chưa lấy chồng. Vì thương tôi còn măng sữa mà đã mất mẹ nên bà đồng ý lấy bố tôi và trở thành mẹ kế của tôi. Bố tôi là Nguyễn Lôi Xuân, vốn là con nhà nho, có được học hành, nhưng vào cái thời đó chữ nho không còn được trọng vọng nữa nên cái nghề ông đồ dạy học của bố tôi chẳng còn kiếm được mấy tí cơm cháo để nuôi đủ vợ con... Vào khoảng năm 1917 hay 1918 gì đó, bố tôi bị thi trượt kỳ thi Hương (lúc đó gọi là thi Tam trường) nên vẫn chỉ là ông đồ, ngồi dạy học hết nhà này sang nhà khác mà vợ vẫn phải đi cuốc cỏ thuê lấy tiền đi ch. Rồi bố tôi lại ra tận Kiến An tìm chỗ dạy học (việc đi Kiến An là do ông Lý ở làng Lộ Đông - bạn đồng khoa với bố tôi - giới thiệu giúp). Lúc đó nhà mới có anh cả tôi là Nguyễn Bá Thọ (anh Thọ hơn tôi 3 tuổi) với tôi. Hai anh em ở lại quê cùng với dì Đởm. Anh Thọ lên sáu đã biết đi mót lúa, đào chuột ngoài đồng. Khi tôi lên sáu thì được ông bác là Nguyễn Văn Quý (ở quê thường gọi là ông Qưới) đón sang nhà cho học chữ nho. Bác Qưới đỗ Cử nhân và có lúc đã được thụ chưa Hàn lâm Kim thảo nên còn gi là ông Hàn Nguyễn. Tôi học được một quyển Tam tự kinh và một quyển Tam thiên tự. Khi tôi lên tám thì bố tôi từ Kiến An trở về đón cả nhà ra Hà Nội. Ông thu xếp cho gia đình ở nh mt ngưi trong làng Vĩnh Phúc (giáp đường Hoàng Hoa Thám ngày nay). Bố tôi vẫn đi dạy học ở Kiến An, mấy mẹ con tôi thì đi xe đất thuê cho nhà máy gạch gần đền Quán Thánh, hồ Trúc Bạch. Sau không còn việc đi xe đất nữa thì hai anh em tôi đi bán bánh tây (bánh mì). Bánh đựng trong bao tải, anh em khoác lên vai, vừa đi vừa rao, một xu một cái. Hôm nào bán được kha khá thì bàn nhau ăn đi một cái (để tự thưởng cho mình). Dì Đởm thì mua mía bó về để ở cửa nhà chia ra bán lẻ từng cây.

Năm tôi lên chín, đến vụ đóng thuế thân (thuế thân mỗi năm phải đóng một lần còn gọi là suất sưu) của bố tôi; chỉ một suất 2 đồng rưỡi tiền Đông Dương thôi nhưng gia đình tôi cũng không kiếm đủ tiền. Do không đóng được thuế nên b tôi bị giắt đũa vào kẽ tay rồi buộc dây thít lại rất đau. Chẳng riêng gì bố tôi, ai không đóng nổi thuế cũng bị “tra tấn" kiểu như vậy nên khó mấy cũng phải cố mà chạy tiền để đóng cho xong cái khoản sưu đó. Thuế này thu vào đ tháng năm hàng năm, thu tại quê gốc. Chính quyền họ quản rất chặt nên người dân dù có đi làm ở đâu, cứ đến vụ thuế là vẫn phải tìm đường mà về. Bố tôi không còn cách nào xoay ra tiền thuế nên quyết định phải bán một đứa con. Tôi là con thứ nên bị bán (vì phải để anh Thọ là anh trưởng ở lại nhà gánh việc hương khói). Tôi bị bán cho một ông tên là Đỗ Văn Đòng ở làng Hữu Tiệp, Hà Nội. (Bên trong là việc mua bán hẳn hoi nhưng bên ngoài gọi là cho làm con nuôi”). Tiền bán được sáu đồng Đông Dương, bố tôi đem nộp thuế xong lại đi Kiến An dạy học ngay.

Tôi ở với ông Đòng, mang tiếng là “con nuôi” nhưng thực ra quá con ở, khổ cực lắm. Ông Đòng bà Đòng không có con, ở trên còn có cha mẹ, dưới có cô em tên là Đỗ Thị Mây. Ông bố của ông Đòng lúc đó khoảng độ ngoài 50 tuổi, tính rất ác. Bà vợ ông ấy thì ưa đồng bóng, lại nghiện rượu nặng, cứ uống vào là chửi vung lên, tất nhiên những câu chửi của bà ấy có cả tôi cũng phải hứng chịu. Ông Đòng thì bị điếc và tương đối hiền. Ông ấy làm thợ sắt ở nhà máy xe lửa Gia Lâm, ít trông nom đến việc ở nhà. Việc nhà thực chất đổ hết lên vai một thằng bé chín tuổi là tôi. Sáng bảnh mắt mới bốn giờ đã phải dy, đi từ làng Hữu Tiệp (gần nhà máy bia Hà Nội) đến Nghi Tàm (bên bờ bắc Hồ Tây) mua hoa đem xuống Bờ Hồ cho bà Mây bán, sau đó về giặt giũ cho cả nhà, thi cơm, quét dọn, rửa bát v.v... Chiều đến lại đi cắt hoa ở vưn các làng Đống Nước, Ngọc Hà. Có hôm, phải đi cắt lá cúc tần để bó hoa sang mãi làng Vn Bảo cắt lá ở hàng rào nhà người ta, hoặc cắt ở cây mọc hoang hai bên đường Đội Cấn (ngày xưa khu ấy gọi là Vườn Bông), đi xa, cắt được đầy rố sảo, nặng quá, phải nhờ người đi đường cất giúp lên đầu mới đội đi được. Tôi ăn cơm xong lại phải ngôi bó hoa. Việc làm rất tỉ mỉ, ví như phải lấy những cái que nhỏ như que tăm, dài độ gang tay, buộc mấy cuống hoa vi-ô-lét cho nó dài ra rồi mới cắm được vào lo (chú thích thêm: hoa vi-ô-lét là loài mọc lan dưới đất như loài rau diếp cá, hoa tím có mùi thơm, không phải loài hoa tím không thơm có cành dài, lá như lá thì là có tên là a-lo-ét mà bây giờ người ta vẫn gọi nhầm là “vi-ô-lét đâu)... Dịp Tết thường phải làm đến nửa đêm. Công việc ngày nào cũng ngập đầu ngập cổ như thế, một thằng bé mới chín mười tuổi như tôi, cái tuổi còn ham chơi mà chẳng bao giờ đưc ngơi tay ngơi chân để chơi lấy một lúc. Có hôm thèm chơi quá, khi đi lấy hoa tôi đã để rổ hoa đấy nhảy ra chơi với lũ trẻ con nên về muộn. Thế là b ông cụ Đòng, bà vợ và người con dâu trưởng (m nuôi) đồng thanh chửi bới vuốt mặt không kp. Có lúc còn phải đòn. Lắm lúc cảm thấy tủi nhục quá, tôi phải khấn gọi mẹ để than thân trách phận với mẹ và mong mẹ phù hộ.

Do phải thường xuyên đi vào những nơi tha ma, bờ rậm, bụi hoang, ao chuôm để hái lá, hái hoa mò (hoa bấn đỏ), nhổ hoa súng đem về làm hoa bán (rét cũng phải lội). Chân tay tôi nhiều khi bị sứt sát; chẳng thuốc men băng bó gì rồi cũng tự khỏi. Nhưng một lần bị một vết rách ở bắp chân khá sâu, sau thành sâu quảng, to bằng đồng xu, suốt hai năm, ai mách lá gì thì đắp lá ấy đều không khỏi. Vết sâu quảng ngày càng ăn sâu và rộng ra, rất đau nhức. May sao biết được ông Cả Bích cùng ở làng Hữu Tiệp đang là y tá, mới nhờ ông ấy chữa. Ông lấy bông và nước vô trùng rửa ngoáy sâu vào chỗ sâu quảng, đau điếng cả người nhưng phải cắn răng mà chịu, rồi ông bôi "canh-ki-dốt" (thực ra là tanh-tuya-đi-ốt), xót cứng người, rồi ông lại rắc phèn xanh đầy lên vết sâu... Thế rồi nó khô miệng, co lại và khỏi. Có lần tôi bị thối tai, cũng chẳng ai chăm chữa, mình chẳng biết thuốc gì, chỉ biết hàng ngày lấy bông ngoáy cho mủ ra, dần tự khỏi lúc nào không biết. (y vậy mà đến giờ trên chín mươi rồi mà tai tôi vẫn còn nghe rõ).

Trong nhà may chỉ có “cô Mây là người có bụng rộng rãi, không đến nỗi coi khinh coi rẻ người ăn kẻ ở. Bà Mây lúc đó chưa lấy chồng, hàng ngày ngồi bán hoa ở bờ Hồ Hoàn Kiếm đối diện nhà Godart. (Siêu thị Hanoi plaza bây giờ). Buổi tối bà thích nghe đọc tiểu thuyết Tàu. Tuy con nhà khá giả nhưng bà cũng không được học chữ, bà nghĩ ra cách cho tôi tiền đi học mấy tháng chữ quốc ngữ, học xong về đọc tiểu thuyết cho bà nghe. Những là “Tam quốc”, “Ngũ hổ bình Liêu”, “Phấn trang lâu v.v... Khi tôi đọc sách thì bà bó hoa đổi công cho tôi, thỉnh thoảng bà còn mua quà cho ăn và cho ít tiền tiêu vặt nữa. Tuy bà Mây có thương tôi thực, nhưng bà cũng không thể bớt cho tôi những quãng đường chân đất, đi bộ ngày ngày từ làng Hữu Tiệp đến Nghi Tàm rồi xuống Bờ Hồ để mua hoa đem xuống “bờ hồ” cho bà bán. (Tính ra mỗi ngày tôi đều phải đi vài chục cây số). Bà Mây cũng không thể thay tôi lội xuống hồ những sáng tinh sương giá buốt để bứt những bông hoa súng hiếm hoi. Bà Mây còn muốn cho tôi đi học thêm ít nữa nhưng bố, m ông Đòng bắt tôi thôi để làm việc nhà. Khoảng mười một mười hai tuổi, tôi phải kiêm thêm viêc đi chợ mua sắm những ngày giỗ, tết. Tôi khoác thúng lên chợ Đồng Xuân, len lỏi vào chỗ các bà đi chợ nghe các bà khảo giá, mặc cả rồi mua theo họ. Dần dần tôi cũng thông thạo cách chọn hàng hoá, cách trả giá và cả cách nấu nướng của “người kẻ chợ (vì quan sát và phục dịch việc nấu cỗ cho bà Đòng, bà Mây). Tôi ở làm con nuôi suốt năm sáu năm trời mà chẳng có ai ra thăm được một lần, vì nhà nghèo đường xá xa xôi, người nhà không có tiền đi tàu đi xe... Mãi đến khi tôi mười lăm tuổi (năm 1929), bố tôi mới kiếm được đủ tiền (sáu đồng bạc) để chuộc tôi về. Khi đó, nhà ông bà Đòng có ý tiếc, muốn giữ tôi ở lại, bố tôi phải nói mãi họ mới chịu nhận tiền chuộc để cho tôi theo bố về quê. (Lúc đó sáu đồng bạc là rất to, vì một t gạo có hai đồng rưi, một mét vải hai hào rưỡi, một bát phở ba xu, bánh tây một xu v.v...). Cha con dắt nhau về quê đúng vào dịp Tết. Ăn tết xong bố tôi đưa tôi xuống Phủ Quảng xin vào học trường công, gọi là Trường Cao đẳng tiểu học, trường có sáu lớp, thứ tự là Năm - Tư - Ba - Nhì dưới – Nhì trên và Nhất. Lớp Năm là lớp Bét. Lúc đó cả ba huyện Yên Định, Thọ Xuân, Vĩnh Lộc mới có được cái trưng như vậy. Muốn vào được lớp Bét, tôi phải khai rút đi mấy tuổi (vì mười lăm tuổi là không được vào học lớp Bét đó nữa). Đưa tôi về quê xin học xong, bố tôi li ra Hà Nội cùng với dì và anh Thọ tiếp tục làm việc kiếm tiền. Tôi ở nhờ nhà bác Cử - anh ruột bố - để đi học. Thời gian đầu, bố gửi cho tôi mỗi tháng một đồng rưỡi để ăn và mua sách vở. Tiền học không phải đóng. Hàng ngày đi học về tôi tự nấu nướng cơm nước ăn một mình. Cơm chủ yếu ăn với muối rang mỡ, có lúc phải vớt cả cái váng trên mặt vại cà muối chưng lên để ăn với cơm. Lúc nào bí quá thì qua nhà bà dì ở làng Phương Giai xin được quả cà muối, quả dưa chuột về ăn, thậm chí còn phải xin cả vài bơ gạo về nấu cháo dần nữa. Ngày nghỉ, tranh thủ ra sông Mã bắt con vờ làm mồi câu cá cải thiện bữa ăn hoặc lên rừng kiếm củi về đun. Rừng cách nhà 12 cây số, một mình đi kiếm gánh về, không có người cùng đi để thay nhau gánh nên mỗi lần chẳng đưc bao nhiêu; khi hết củi phải vơ lá để thổi cơm và đốt lấy ánh sáng để học. Cũng có lúc qua nhà dì xin được gánh củi bằng thân cây cà phơi khô.

Nhà bác Cử tôi có anh Chí là con trai, cùng tuổi với tôi nhưng học trên tôi hai lớp. Tối tối tôi thường ngủ cùng anh Chí cho khỏi rét. Bác Cử (tức bác Qưới, tức ông Hàn Nguyễn) rất thương tôi, nhà cũng rất nghèo nên không giúp đỡ được gì nhiều. Thỉnh thoảng nhà có giỗ tết, bác không quên gọi sang ăn, khi đánh đòn tôi bác cũng đánh y như đánh anh Chí vậy. Bác cử tôi vẫn đi dậy chữ Hán ở trường Pháp - Việt mỗi tuần một buổi, tháng được bốn, năm đồng; bác gái thì ốm yếu, nhà có mấy người con nhưng chỉ mới có một chị biết làm ruộng. Bác cử cũng hay phải đi vay tiền và thường cho tôi đi theo làm “tiểu đồng. Có nhà nào nể mặt bác là quan Hàn mà sắp cơm ra đãi thì tôi cũng được ăn ghé. Từ nhà bác tôi đến trường học xa 3 km đi hết gần một tiếng đồng hồ, thời gian đi từ nhà đến trường cũng là thời gian tôi tranh thủ học bài, bởi thì giờ của tôi rất hiếm (vì học ngày 2 buổi).

Học được một thời gian thì hoàn cảnh gia đình càng sa sút hơn, có lúc ông bố chỉ gửi cho được một đồng một tháng, rất thiếu tiền tiêu. Tôi đã phải đến cửa hàng Mộng Long nhà ông Cò Tước ở phố Giáng mua chịu sách vở, bút mực. Ông Cò Tước có hai con trai là Hồ Thanh Giản và Hồ Sĩ Phấn cùng học một trường với tôi. Có lần phải xuống tỉnh thi tốt nghiệp tiểu học, cũng phải mua chu vải nhà ông Cò Tước đ may quần áo đi thi. Món nợ đó mãi sau ngày hoà bình lập li tôi mới đem đến trả được, nhưng ông Tước lại không chịu ly.

Tôi học từ tháng giêng năm 1930 cho đến hết tháng năm và thêm mt tháng học hè ở nhà hết được lớp Bét và đủ điểm lên lớp Tư. Mới học lớp Tư được hai tháng thì cô giáo Tâm phụ trách dạy lớp tôi đã đề nghị với ông đốc học xin cho tôi nhảy lên lớp Ba, vì cô bảo: “thằng bé này học nhanh qua, nó thừa sức ra.... Khi lên lớp Ba, chỉ hai tháng đầu là tôi phải chịu đứng thứ 5 trong lớp, còn sau đó tôi lại vươn lên đứng đầu cho đến cuối năm học. Cuối năm 1930 đầu năm 1931 khi tôi học xong lớp Ba thì học sinh phải thi để lên lớp Nhì, ai thi đạt loại xuất sắc thì được lên thẳng lớp Nhì trên, không phải học một năm ở lớp Nhì dưới nữa. Tôi được lên thẳng lớp Nhì trên, tại lớp này, cả năm học tôi đều đứng thứ nhất. Trong lớp tôi hăng hái phát biểu ý kiến, khi được gi kiểm tra miệng, tôi cũng trả lời gọn ghẽ, chính xác nên thường được ghi “nốt" tốt. Sang năm học 1932 - 1933, trong thời gian học lớp Nhất, tôi lại được xếp đầu lớp trong cả năm. Trường Cao đẳng tiểu học Ph Quảng góp sáu lớp mà tôi chỉ học hết 3 năm là tốt nghiệp, nên ni tiếng trong toàn huyện, nhiều nhà bảo con: “học như cậu cháu cụ Hàn Nguyễn mới nên học”.

Tôi phải xét một cách khách quan rằng, ở ngôi trường Cao đẳng tiểu học mà tôi được học thời đó, các thày cô giáo dạy rất giỏi, lại tận tụy với nghề nghiệp, đối xử với học trò rất công tâm. Nhờ vậy mà tôi được động viên, vui vẻ học tập, nắm chắc được kiến thức. Mặc dù chỉ học hết tiểu học nhưng những thứ học được đó đã có ích cho tôi lâu dài trong cuộc sống, nhất là môn ngoại ngữ, (tiếng Pháp bắt đầu “học” từ lớp Ba là đã phải “hành" tức là dùng tiếng pháp trong lúc học và thi) sau này đã sử dụng đến rất nhiều.

Được dạy dỗ cẩn thận cộng với tính ham học sẵn có, có thể nói tôi đã dễ dàng vượt qua được chương trình Cao đẳng tiểu học, đi thi ở tỉnh lấy được bằng cấp hẳn hoi mà còn tiết kiệm được hai năm cơm áo của cha mẹ. Tôi nói dễ dàng là về công học hành thôi, chứ bốn năm học là bốn năm vượt qua trùng trùng khó khăn trong đời sống, vượt bao vất vả về thể lực... Cuộc thi tốt nghiệp trên tỉnh chẳng hạn: từ nhà lên tỉnh lị Thanh Hóa cách 44 km, một mo cơm nắm đi bộ từ ng đến chiều tối mới tới, sáng hôm sau là thi ngay các môn Toán, Cách trí (thức môn Khoa học), Luận, Sử... (trong hai ngày).

Tốt nghiệp đưc trường Cao đẳng tiểu học, tôi cũng không thể quên được công ơn cha mẹ, ông bác, bà dì, và cả những người như ông Cò Tước, chẳng phải họ hàng mà cũng đã khẳng khái giúp tôi.

Cũng có vài kỷ niệm vui vui trong thời gian học tiểu học: Trong kỳ nghỉ hè từ lớp Nhì lên lớp Nhất, tôi được ông Phó Căn người cùng làng đón về dạy con trai ông cùng mấy em bé con nhà hàng xóm (vậy là có học có hơn, “nhất tư vi sư đúng như người xưa nói). Tiền công thì chưa có nhưng tôi đã được nhà ông Phó Căn sắp xếp cơm nước tử tế, ông bà rất thương tôi đã đánh tiếng muốn gả con gái cho nữa! Cũng vui là sau này con trai ông Phó Căn, cậu “học trò” đã từng bị tôi đánh đòn lại trở thành con rể bác Cử tôi. Đó là bác Lai, tôi lại phải gọi là anh rể, là bố của các cháu Quang, Minh, Cảnh bây giờ.

Thời gian tôi ngồi dạy học ở nhà ông Phó Căn, cô con gái út của ông bà tên là cô Vạn, mới 13 tuổi đã “phải lòng tôi, tôi cũng thầm ấy, hai người chưa dám chuyện trò gì với nha chỉ tỏ cảm tình với nhau qua ánh mắt, nụ cười thôi. Sau, bố tôi gọi ra Hà Nội thì mối tình đầu đó trở thành vô vọng.

Một chuyện khác là, khi tôi 18 tuổi, đang học năm cuối, vì hoàn cảnh ngặt quá, bác Cử mới đưa đến làng Hồ Nam định gán cho con gái đã mang thai nhà ông chánh tổng Hồ Nam giàu có, với ý định để cho tôi có chỗ dựa, có điều kiện để tiếp tục học lên cao nữa. May sao cô ta không đồng ý. (Chứ nếu không thì cuộc đời tôi chẳng biết đã rẽ sang ngả nào?). Sau khi tốt nghiệp, tôi được mời lên làng Mỹ Xuyên (cách nhà chừng 3 cây số) để dạy học. Lớp học ở nhà tư, học trò chỉ đi lăm em nhưng ở đó tôi cũng đã được tôn trọng, được ngồi cùng bàn với lý trưởng khi có việc làng. Dạy học ở Mỹ Xuyên được gần một năm thì tôi được gọi ra Hà Nội để kiếm việc làm.

Thời gian học ở quê nhà, còn có một việc không thể không nhắc tới, một việc quan trọng đã tác động đến cả cuộc đời sau này của tôi. Đó là sự nhen nhóm của ý tưởng cách mạng, của tinh thần yêu nước thương nòi. Khi học lớp Nhì, lớp Nhất là lúc tôi bước vào tuổi thanh niên, đã bắt đầu biết suy nghĩ về nhân tình thế thái, về thời cuộc. Tôi nghe trong nhà trường, trong làng xóm có nhiều người xì xầm về những người tham gia “hội kín yêu nước, những người làm cộng sản... Trong học sinh nhiều người truyền tay nhau những bài thơ của Á Nam Trần Tuấn Khải, như bài:

Gánh nước đêm

Đêm khuya canh đã hầu tàn
Anh ơi ngồi dậy để em than mấy lời
Sư tình cực lắm anh ơi
Nước non gánh nặng cuộc đời có biết không?”
v.v...

Hay bài:

“Lời Phi Khanh dặn Nguyễn Trãi”

Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm
Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu
Bốn bể vượn hót chim kêu
Nhìn về cố quốc như khêu tấc sầu.
Con đang độ đầu son tuổi trẻ
ớc gian lao há để nhường ai
Phải nên thương lấy giống nòi
Đừng ham phú quý mà nguôi tắc lòng
Thời thế có anh hùng là thế
Chữ vinh hoa xá kể làm chi
Mấy trang hào kiệt xưa kia
Hi sinh thân thế cũng vì nước non
Con nay cũng là người trong nước
Phải nhắc cân gia quốc đôi đường
Làm trai hồ thỉ tứ phương
Sao cho khỏi thẹn với gương Lạc Hồng
Kiếp luồn cúi đỉnh chung cũng nhục
Thân t do chiếu trúc mà vinh
Con ơi nhớ đức sinh thành
Sao cho khỏi để ô danh với đời”...

Nhưng câu thơ đã khiến tâm hồn của ngưi thanh niên đang độ hăng say nhịp sống như tôi đó không thể không chấn động, không thể không thấy máu huyết sôi lên vì “gánh nặng nước non”,một thời thế anh hùng vì lòng mong ức được hy sinh phấn đấu như những trang hào kiệtđể khỏi hổ thẹn với gương Lạc Hồng”.

Tiểu sử tóm tắt


Tiểu sử cụ Nguyễn Trọng Vĩnh


Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh sinh ngày 1-10-1916 tại xã Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa Trong một gia đình nhà Nho. Vào thời thuộc Pháp, chữ Nho không còn đươc trọng dụng, gia đình trở nên nghèo khó, vì không có tiền đóng thuế thân, cụ thân sinh (cụ Nguyễn Lôi Xuân) đã phải bán cụ Vĩnh- là con thứ trong nhà, khi đó mới 9 tuổi- để lấy tiền đóng thuế. Cụ Vĩnh bị bán làm “con nuôi”- thực chất là con ở- cho một gia đình trồng và buôn bán hoa ở làng Hữu Tiệp Hà Nội. Trải 6 năm vất vả khổ cực, cụ được cha chuộc về quê cho đi học trường Cao đẳng tiểu học Phủ Quảng (là trường công trong hệ thống giáo dục do người Pháp thiết lập, dạy cả tiếng Việt và tiếng Pháp). Mặc dù nhà vẫn rất nghèo, điều kiện sinh hoạt, học tập vô cùng thiếu thốn, nhưng cụ Vĩnh vẫn say mê học tập. Bản tính thông minh nên chỉ mất 3 năm học, cụ đã hoàn thành được chương trình của 6 năm ở bậc tiểu học và thi lấy được bằng Cao đẳng Tiểu học vào năm 1933.

Đã có bằng cấp, nhưng mãi 3 năm sau khi trở lại làm tạm việc vặt cho nhà ông chủ trồng hoa ở Đại Yên, cụ Vĩnh mới xin được việc làm ở nhà in Lê Văn Tân, rồi chuyển sang nhà sách Vạn Tường. Tại đây, cụ đã tranh thủ điều kiện thuận tiện, đọc thêm nhiều sách, mở mang được nhiều kiến thức… Tuy vậy, cũng tại đây, lần đầu tiên, cụ tham gia phong trào công nhân đình công đòi tăng lương, vì vậy bị mất việc và sau đó cũng không xin được việc ở các nhà in khác, phải nhận lại việc của anh em thợ nhà in Tô panh.

Từ khi còn ở quê nhà, đã sớm tiếp thụ tinh thần yêu nước qua thơ văn được các nhà nho yêu nước truyền tụng; gia nhập làng công nhân thợ in Hà Nội, càng được giác ngộ, cụ đã nhanh chóng tham gia các hoạt động của phong trào. Năm 1936, tham gia Hội Ái hữu nghề in (tức Bắc kỳ công ấn ái hữu hội), cụ được các nhà hoạt động đàn anh như Nguyễn Văn Trân, Trần Đăng Ninh, trần Quốc Hoàn, Đào Duy Kỳ… dẫn dắt.

Năm 1938, vì tham gia cuộc biểu tình lớn ở nhà Đấu xảo, cụ bị chính quyền Pháp bắt nhưng lại được thả vì họ chưa có chứng cớ.

Năm 1939, Mặt trận Bình dân bên Pháp đổ, phong trào công nhân ở Việt Nam gặp nhiều khó khăn hơn trước, nhưng cụ vẫn tích cực tham gia các hoạt động và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.

Tháng 5-1940, cụ bị Pháp bắt đưa đi “an trí” (đi đày) ở trại TS (Travailleur Special) Đăc lây Con Tum, sau chuyển sang trại Đắc Tô. Trong nhà đày, đã có lần cụ suýt chết vì sốt rét ác tính.

Năm 1945, được tha tù nhân sự kiên Nhật đảo chính Pháp, cụ tìm đường trở lại Hà Nội, bắt liên lạc với Tổ chức và tiếp tục hoạt động. Cụ tham gia  tổ in báo Cờ giải phóng ở ATK (địa bàn huyện Đông Anh) rồi được cử làm Bí thư huyện ủy Đông Anh (lúc đó thuộc tỉnh Phúc Yên), thành lập Chính quyền Cách mạng , phát triển tổ chức Việt Minh; tham gia Tuần lễ vàng, phong trào Ba diệt (giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm)…Cùng năm, cụ được bầu làm Bí thư tỉnh ủy Phúc Yên.

Năm 1946, cụ kết hôn với cụ bà là Lê Thị An, cũng là người trong Tổ chức ở Đông Anh. Nhưng cùng năm đó, cụ lại được điều đi làm Bí thư tỉnh ủy Thái Bình.

Cuối năm 1946, giặc Pháp bắt đầu gây hấn ở Hà Nội, cụ được điều lên Việt Bắc làm Chính ủy Quân khu I (gồm 3 tỉnh Thái Nguyên, Bắc Cạn, Cao Bằng).

Năm 1948, được giao chức Trưởng phòng Cán bộ trong Cục Tổng Thanh tra Quân đội.

Năm 1950, Quân đội thành lập Tổng cục Chính trị, được bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục Tổ chức; với cương vị đó, cụ đã tham gia các chiến dịch Hà Nam Ninh, chiến dịch Hòa Bình, chiến dịch Tây Bắc, chiến dịch Sầm Nưa. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, cụ được phân công chỉ đạo, động viên lực lượng tiếp tế chiến dịch, chuyên theo dõi kiểm tra việc tiếp tế từ Thanh Hóa lên Mộc Châu.

 Sau 8 năm làm Cục trưởng Cục Tổ chức TCCT, năm 1958, cụ được điều đi làm Chính ủy Quân khu 4, chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Năm 1959, sau khi có Luật Sĩ quan, cụ được phong quân hàm thiếu tướng (cùng đợt với khoảng 30 sĩ quan cấp tướng). Quân khu 4 đóng trên địa bàn  Nghệ An nên cụ tham gia ứng cử Quốc hội ở tỉnh và được bầu làm đại biểu Quốc hội ở đó (khóa 2).

Tháng 9- 1960, tại Đại hội toàn quốc lần thứ III Đảng LĐVN, cụ được bầu làm Ủy viên Trung ương dự khuyết (tổng số Ủy viên Trung ương cả chính thức và dự khuyết là 47 người), được phân công làm Phó ban Tổ chức trung ương Đảng (Lê Đức Thọ là trưởng ban). Vì các Phó ban khác đều chưa phải UVTW nên đương nhiên cụ là Phó ban thứ nhất. Trong công việc, cụ thường thẳng thắn trình bày chính kiến riêng, nhiều suy nghĩ, quan điểm không đồng nhất với trưởng ban nên đã bị Lê Đức Thọ đề nghị cho đi Thanh Hóa nhận chức Bí thư tỉnh ủy chỉ sau 6 tháng làm Phó ban Tổ chức.

Cuối năm 1964, theo đề nghị của Trung ương Đảng bên Lào, Trung ương Đảng Việt Nam cử cụ sang phụ trách Ban Công tác miền Tây và làm trưởng đoàn cố vấn bên cạnh Trung ương Đảng Bạn; sau kiêm thêm Trưởng đoàn chuyên gia quân sự giúp Lào (đoàn 959) cho đến năm 1973. Mười năm làm chuyên gia cố vấn, cụ luôn đi sâu sát nắm tình hình các địa bàn, bất chấp các tuyến đường, các địa bàn thời kỳ đó bom đạn địch rất ác liệt. Cụ đã đóng góp cho Bạn nhiều ý kiến sâu sắc, thiết thực, hiệu quả; và đã thực hiện đúng lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Có ý kiến đóng góp với Bạn nhưng tránh không làm “ông Toàn quyền” không áp đặt, luôn tôn trọng chủ quyền của Bạn. Phía Bạn Lào luôn tin tưởng và ghi nhận những đóng góp đó, đã tặng cụ Huân chương Tự do hạng Nhất ( huân chương cao quý nhất của Lào).

Xong nhiệm vụ giúp Lào, năm 1974, cụ được giao nhiệm vụ làm Đại sứ  đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, sau kiêm nhiệm Đại sứ tại nước Cộng hòa Hồi giáo Pakitxtan.

Bắt đầu từ năm 1976, Trung Quốc thay đổi thái độ đối với Việt Nam khiến quan hệ hai nước trở nên căng thẳng, công việc làm đại sứ  gặp rất nhiều khó khăn trở ngại và phức tạp. Nhưng cụ đã khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành tốt. Như trong hồi kí, cụ viết “Làm Đại sứ Trung Quốc trong những năm Trung Quốc cố tình khiêu khích và biến Việt Nam thành kẻ thù, đã đành là rất căng thẳng thần kinh và hao tổn thể chất, nhưng với tôi không phải là hoàn toàn chỉ có vất vả, gian khổ. Cũng có khi được đắc ý chứ. Ấy là niềm vui sau những cuộc đấu lý với Trung Quốc. Họ thì hùng hùng hổ hổ, đập bàn đập ghế, dùng những lời lẽ đao to búa lớn để vu cáo trắng trợn, đe dọa ta. Tôi thì vận hết nội công, cố sức kiềm chế để không bị cuốn vào cái kiểu bất lịch sự, phi ngoại giao đó, để tìm những lý lẽ và ngôn từ đích đáng, đập lại họ, buộc họ phải rút dù”.

Trong 13 năm làm Đại sứ (nhiệm kì dài nhất trong lịch sử bang giao với Trung Quốc thời hiện đại), cụ còn đảm nhiệm vai trò Trưởng đoàn Ngoại giao ở Bắc Kinh, cũng đã làm tốt công việc, được các nhà ngoại giao các nước nể trọng. Sau khi kết thúc nhiệm kỳ, cụ được Nhà nước tặng Huân chương Hồ Chi Minh và chính thức nghỉ hưu ở tuổi 71.

Sau khi nghỉ hưu, cụ tham gia cuộc vận động thành lập Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Cụ được bầu là Phó chủ tịch phụ trách đối ngoại của Hội (từ năm 1993 đến 1998). Cụ còn tham gia việc thành lập hội Người Cao tuổi, CLB hưu trí Bộ Ngoại giao.

Cụ đã viết nhiều thư gửi đến lãnh đạo Đảng, Nhà nước về nhiều vấn đề cần suy nghĩ để đóng góp ý kiến với mong muốn “để giới quyền uy bớt lỗi lầm”. Nhưng những ý kiến chân thành thẳng thắn của cụ đã không được giới quyền uy tiếp thụ, suy xét đến. Vì vậy cụ đưa những suy nghĩ của mình lên các trang mạng xã hội, nói với cộng đồng nhân dân để mọi người cùng suy ngẫm. Cụ đã viết hàng mấy trăm bài báo với chủ đề chung là “Phải trái sự đời” để đóng góp luận bàn phải trái với cộng đồng, để khai dân trí, để nhắc nhở mọi người về trách nhiệm công dân trong sự nghiệp bảo về Tổ quốc, xây dựng xã hội tiến tới dân chủ- công bằng- văn minh./.

  XIN CHO CỤ NGUYỄN TRỌNG VĨNH LÀ “TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT"! Mạc Văn Trang Chị Nguyễn Nguyên Bình sau khi đi tảo mộ cha - Lão tướng, nhà Ng...