Tiểu sử cụ Nguyễn Trọng Vĩnh
Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh sinh ngày 1-10-1916 tại xã Vĩnh Tiến,
huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa Trong một gia đình nhà Nho. Vào thời thuộc Pháp,
chữ Nho không còn đươc trọng dụng, gia đình trở nên nghèo khó, vì không có tiền
đóng thuế thân, cụ thân sinh (cụ Nguyễn Lôi Xuân) đã phải bán cụ Vĩnh- là con
thứ trong nhà, khi đó mới 9 tuổi- để lấy tiền đóng thuế. Cụ Vĩnh bị bán làm
“con nuôi”- thực chất là con ở- cho một gia đình trồng và buôn bán hoa ở làng Hữu
Tiệp Hà Nội. Trải 6 năm vất vả khổ cực, cụ được cha chuộc về quê cho đi học trường
Cao đẳng tiểu học Phủ Quảng (là trường công trong hệ thống giáo dục do người
Pháp thiết lập, dạy cả tiếng Việt và tiếng Pháp). Mặc dù nhà vẫn rất nghèo, điều
kiện sinh hoạt, học tập vô cùng thiếu thốn, nhưng cụ Vĩnh vẫn say mê học tập. Bản
tính thông minh nên chỉ mất 3 năm học, cụ đã hoàn thành được chương trình của 6
năm ở bậc tiểu học và thi lấy được bằng Cao đẳng Tiểu học vào năm 1933.
Đã có bằng cấp, nhưng mãi 3 năm sau khi trở lại làm tạm việc
vặt cho nhà ông chủ trồng hoa ở Đại Yên, cụ Vĩnh mới xin được việc làm ở nhà in
Lê Văn Tân, rồi chuyển sang nhà sách Vạn Tường. Tại đây, cụ đã tranh thủ điều
kiện thuận tiện, đọc thêm nhiều sách, mở mang được nhiều kiến thức… Tuy vậy,
cũng tại đây, lần đầu tiên, cụ tham gia phong trào công nhân đình công đòi tăng
lương, vì vậy bị mất việc và sau đó cũng không xin được việc ở các nhà in khác,
phải nhận lại việc của anh em thợ nhà in Tô panh.
Từ khi còn ở quê nhà, đã sớm tiếp thụ tinh thần yêu nước qua
thơ văn được các nhà nho yêu nước truyền tụng; gia nhập làng công nhân thợ in
Hà Nội, càng được giác ngộ, cụ đã nhanh chóng tham gia các hoạt động của phong
trào. Năm 1936, tham gia Hội Ái hữu nghề in (tức Bắc kỳ công ấn ái hữu hội), cụ
được các nhà hoạt động đàn anh như Nguyễn Văn Trân, Trần Đăng Ninh, trần Quốc
Hoàn, Đào Duy Kỳ… dẫn dắt.
Năm 1938, vì tham gia cuộc biểu tình lớn ở nhà Đấu xảo, cụ bị
chính quyền Pháp bắt nhưng lại được thả vì họ chưa có chứng cớ.
Năm 1939, Mặt trận Bình dân bên Pháp đổ, phong trào công
nhân ở Việt Nam gặp nhiều khó khăn hơn trước, nhưng cụ vẫn tích cực tham gia
các hoạt động và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tháng 5-1940, cụ bị Pháp bắt đưa đi “an trí” (đi đày) ở trại
TS (Travailleur Special) Đăc lây Con Tum, sau chuyển sang trại Đắc Tô. Trong
nhà đày, đã có lần cụ suýt chết vì sốt rét ác tính.
Năm 1945, được tha tù nhân sự kiên Nhật đảo chính Pháp, cụ
tìm đường trở lại Hà Nội, bắt liên lạc với Tổ chức và tiếp tục hoạt động. Cụ
tham gia tổ in báo Cờ giải phóng ở ATK (địa
bàn huyện Đông Anh) rồi được cử làm Bí thư huyện ủy Đông Anh (lúc đó thuộc tỉnh
Phúc Yên), thành lập Chính quyền Cách mạng , phát triển tổ chức Việt Minh; tham
gia Tuần lễ vàng, phong trào Ba diệt (giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm)…Cùng
năm, cụ được bầu làm Bí thư tỉnh ủy Phúc Yên.
Năm 1946, cụ kết hôn với cụ bà là Lê Thị An, cũng là người
trong Tổ chức ở Đông Anh. Nhưng cùng năm đó, cụ lại được điều đi làm Bí thư tỉnh
ủy Thái Bình.
Cuối năm 1946, giặc Pháp bắt đầu gây hấn ở Hà Nội, cụ được
điều lên Việt Bắc làm Chính ủy Quân khu I (gồm 3 tỉnh Thái Nguyên, Bắc Cạn, Cao
Bằng).
Năm 1948, được giao chức Trưởng phòng Cán bộ trong Cục Tổng
Thanh tra Quân đội.
Năm 1950, Quân đội thành lập Tổng cục Chính trị, được bổ nhiệm
làm Cục trưởng Cục Tổ chức; với cương vị đó, cụ đã tham gia các chiến dịch Hà
Nam Ninh, chiến dịch Hòa Bình, chiến dịch Tây Bắc, chiến dịch Sầm Nưa. Trong
chiến dịch Điện Biên Phủ, cụ được phân công chỉ đạo, động viên lực lượng tiếp tế
chiến dịch, chuyên theo dõi kiểm tra việc tiếp tế từ Thanh Hóa lên Mộc Châu.
Sau 8 năm làm Cục trưởng
Cục Tổ chức TCCT, năm 1958, cụ được điều đi làm Chính ủy Quân khu 4, chuẩn bị lực
lượng cho cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Năm 1959, sau khi có Luật Sĩ quan, cụ được phong quân hàm
thiếu tướng (cùng đợt với khoảng 30 sĩ quan cấp tướng). Quân khu 4 đóng trên địa
bàn Nghệ An nên cụ tham gia ứng cử Quốc
hội ở tỉnh và được bầu làm đại biểu Quốc hội ở đó (khóa 2).
Tháng 9- 1960, tại Đại hội toàn quốc lần thứ III Đảng LĐVN,
cụ được bầu làm Ủy viên Trung ương dự khuyết (tổng số Ủy viên Trung ương cả
chính thức và dự khuyết là 47 người), được phân công làm Phó ban Tổ chức trung
ương Đảng (Lê Đức Thọ là trưởng ban). Vì các Phó ban khác đều chưa phải UVTW
nên đương nhiên cụ là Phó ban thứ nhất. Trong công việc, cụ thường thẳng thắn
trình bày chính kiến riêng, nhiều suy nghĩ, quan điểm không đồng nhất với trưởng
ban nên đã bị Lê Đức Thọ đề nghị cho đi Thanh Hóa nhận chức Bí thư tỉnh ủy chỉ
sau 6 tháng làm Phó ban Tổ chức.
Cuối năm 1964, theo đề nghị của Trung ương Đảng bên Lào,
Trung ương Đảng Việt Nam cử cụ sang phụ trách Ban Công tác miền Tây và làm trưởng
đoàn cố vấn bên cạnh Trung ương Đảng Bạn; sau kiêm thêm Trưởng đoàn chuyên gia
quân sự giúp Lào (đoàn 959) cho đến năm 1973. Mười năm làm chuyên gia cố vấn, cụ
luôn đi sâu sát nắm tình hình các địa bàn, bất chấp các tuyến đường, các địa
bàn thời kỳ đó bom đạn địch rất ác liệt. Cụ đã đóng góp cho Bạn nhiều ý kiến
sâu sắc, thiết thực, hiệu quả; và đã thực hiện đúng lời căn dặn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: Có ý kiến đóng góp với Bạn nhưng tránh không làm “ông Toàn quyền”
không áp đặt, luôn tôn trọng chủ quyền của Bạn. Phía Bạn Lào luôn tin tưởng và
ghi nhận những đóng góp đó, đã tặng cụ Huân chương Tự do hạng Nhất ( huân
chương cao quý nhất của Lào).
Xong nhiệm vụ giúp Lào, năm 1974, cụ được giao nhiệm vụ làm
Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, sau kiêm nhiệm Đại sứ tại nước Cộng hòa Hồi
giáo Pakitxtan.
Bắt đầu từ năm 1976, Trung Quốc thay đổi thái độ đối với Việt
Nam khiến quan hệ hai nước trở nên căng thẳng, công việc làm đại sứ gặp rất nhiều khó khăn trở ngại và phức tạp.
Nhưng cụ đã khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành tốt. Như trong hồi kí, cụ viết
“Làm Đại sứ Trung Quốc trong những năm Trung Quốc cố tình khiêu khích và biến
Việt Nam thành kẻ thù, đã đành là rất căng thẳng thần kinh và hao tổn thể chất,
nhưng với tôi không phải là hoàn toàn chỉ có vất vả, gian khổ. Cũng có khi được
đắc ý chứ. Ấy là niềm vui sau những cuộc đấu lý với Trung Quốc. Họ thì hùng
hùng hổ hổ, đập bàn đập ghế, dùng những lời lẽ đao to búa lớn để vu cáo trắng
trợn, đe dọa ta. Tôi thì vận hết nội công, cố sức kiềm chế để không bị cuốn vào
cái kiểu bất lịch sự, phi ngoại giao đó, để tìm những lý lẽ và ngôn từ đích
đáng, đập lại họ, buộc họ phải rút dù”.
Trong 13 năm làm Đại sứ (nhiệm kì dài nhất trong lịch sử
bang giao với Trung Quốc thời hiện đại), cụ còn đảm nhiệm vai trò Trưởng đoàn Ngoại
giao ở Bắc Kinh, cũng đã làm tốt công việc, được các nhà ngoại giao các nước nể
trọng. Sau khi kết thúc nhiệm kỳ, cụ được Nhà nước tặng Huân chương Hồ Chi Minh
và chính thức nghỉ hưu ở tuổi 71.
Sau khi nghỉ hưu, cụ tham gia cuộc vận động thành lập Hội Cựu
chiến binh Việt Nam. Cụ được bầu là Phó chủ tịch phụ trách đối ngoại của Hội (từ
năm 1993 đến 1998). Cụ còn tham gia việc thành lập hội Người Cao tuổi, CLB hưu
trí Bộ Ngoại giao.
Cụ đã viết nhiều thư
gửi đến lãnh đạo Đảng, Nhà nước về nhiều vấn đề cần suy nghĩ để đóng góp ý kiến
với mong muốn “để giới quyền uy bớt lỗi lầm”. Nhưng những ý kiến chân thành thẳng
thắn của cụ đã không được giới quyền uy tiếp thụ, suy xét đến. Vì vậy cụ đưa những
suy nghĩ của mình lên các trang mạng xã hội, nói với cộng đồng nhân dân để mọi
người cùng suy ngẫm. Cụ đã viết hàng mấy trăm bài báo với chủ đề chung là “Phải
trái sự đời” để đóng góp luận bàn phải trái với cộng đồng, để khai dân trí, để nhắc
nhở mọi người về trách nhiệm công dân trong sự nghiệp bảo về Tổ quốc, xây dựng
xã hội tiến tới dân chủ- công bằng- văn minh./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét