(Tiếp chương II)
Lúc tôi đến Đắc-lây thì ở đó mới lập ra khu trại có lính
gác, rào thép gai, có hào cắm chông
và nhiều chòi canh. Trong trại đã có 15 anh em bị bắt ở các nơi đưa về. Lúc đó, phát xít Đức đang chuẩn bị đánh Pháp, bọn cầm quyền ở Việt Nam lo
sợ cách mạng của ta sẽ nhân cơ hội này mà hoạt động mạnh
hơn nên chúng phải bắt cả những người tình nghi và tập trung lại một nơi để rảnh tay đối phó sự nguy hiểm ở chính quốc. Bọn chúng
gọi cái việc bắt tập trung chúng tôi đi biệt xứ đó là đi “an trí”. Vì vậy, ở nhà đày này,
chúng tôi không đến nỗi bị tra tấn, ngược đãi gì lắm; chỉ phải tội bị đưa đến những nơi nổi tiếng rừng thiêng
nước độc, dễ bị chết dần chết mòn vì không quen thung thổ và bệnh sốt rét không
đủ thuốc chữa. Lúc đó, trong cả nước, ngoài cái trại tôi bị giam ở Đắc-lây thuộc tỉnh Kon-tum này, còn có các trại
tương tự như “căng” Bắc Mê (Hà Giang), “căng” Bá Vân (Thái Nguyên), “căng” Li Hi (Thừa Thiên - Huế), toàn nơi rừng rậm núi cao.
Tôi được phát ba bộ quần áo ka-ki, ba chiếc chăn chiên (như
những anh em bị bắt khác) trên đường giải đi Kon-tum. Đến trại Đắc-lây được một thời gian thì
không bị nhốt trong nhà nữa,
được ra làm vườn bên ngoài trại, có lính canh đi theo. Chế
độ ăn theo quy định, mỗi người mỗi ngày được 1.000g gạo, 300g thịt, 300g rau, mắm, muối tiêu khoảng
15g. Có đủ điều kiện trồng thêm rau, nuôi gà, nuôi lợn, nhất là sau khi số
người bị dày lên đến con số 90. Chúng tôi tổ chức đời sống khá tươm tất. Mỗi
tuần lễ, mỗi mâm sáu người được ăn một con gà quay, mỗi tháng được ăn một con
lợn sữa quay.
Ở Đắc-lay khoảng 5 tháng thì trại chuyển đến Đắc-tô cho
tiện đường vận chuyển. Tình hình quản lý giam giữ vẫn như ở Đắc-lây, song số
người bị giam đã lên đến một trăm vì có một số anh em mãn hạn tù ở nhà tù như
Ban-mê-thuột,
Côn Đảo... nhưng bọn Pháp không cho về quê mà đưa đến Đắc-tô để giam giữ tiếp.
Trong số đó tôi nhớ có các anh Hoàng Anh, Nguyễn Duy Trinh, Huỳnh Ngọc Huệ, Tố
Hữu, Lê Văn Hiến, Chu Huy Mân...
Lúc đó, những nơi như Đắc-lây, Đắc-tô còn hoang sơ lắm. Núi
rừng thì rậm rạp vô kể, đời sống của ngưoi dân địa phương thì cực kỳ lạc hậu.
Trên rừng nhiều sản vật quý hầu như chưa ai khai thác. Chúng tôi được nếm khá
nhiều loại thịt thú rừng: hươu, nai, lợn lòi... (Tên Tây đồn cho lính vào rừng săn lợn lòi lấy thịt để thế
vào số thịt phải mua để cấp cho tù, vậy là nó bỏ túi được số tiền mua thịt). Có
lần vào rừng còn thấy cả con hổ bị đánh thuốc độc chết nhưng anh em không dám ăn thịt. Trong rừng gỗ quý
như lim, gụ,
lát, trắc... anh em tha hồ lấy về làm đồ dùng vặt, thậm chí còn lấy cả gỗ trắc về đẽo guốc nữa. Đồng bào dân tộc
ở vùng chúng tôi ở lúc đó còn vắng và cuộc sống mọi người rất đơn sơ mông muội. Nhiều người đi lính cho
Tây cũng chỉ cốt để kiếm kế sinh nhai, đa phần chưa giác ngộ gì về đất nước,
chưa biết Tây là kẻ thù cướp nước. Lúc đó ngay chúng tôi cũng gọi người dân tộc là “mọi”, bình lính người dân
tộc là “lính
mọi”. (Còn nhớ một
chuyện buồn cười, đó là chuyện đồng chí Chu Huy Mân học viết câu và chính tả do
tôi dạy. Anh Mân là cố nông biết chữ qua loa, vào tù học tiếp, khi viết anh
chưa phân biệt được “muỗi”
và “mọi",
có câu “văn”
anh viết: “Ngoài bờ suối có rất nhiều mọi”, anh em bắt bẻ, hỏi “mọi” đâu mà chẳng thấy người nào? Anh phải giải thích: “mọi” ở bờ suối đó, hắn bay vo
ve, hắn “đút” cho sốt rét đó. Lúc đó
mọi người mới hiểu ra là anh nói về con muỗi!). Có bận (khi còn ở Đắc-lấy), chúng tôi đi xuống một
buôn làng tên là Đắc-bla để làm quen với dần (vẫn còn lính đi kèm), tôi thấy
một bà già đang làm rượu cần. Bà tãi xôi nếp ra một cái nia trông cáu bẩn lắm, rồi bà bỏ men rượu vào
miệng nhai nát và nhỏ ra, trộn với xôi… Quả là khiếp, nhưng lần sau lại xuống, bà con đem
rượu cần ra mời, vẫn phải cố mà uống.
Còn những người lính mọi, họ ngây thơ vô cùng. Bình thường họ rất hiền
lành và dễ thương, chúng tôi cũng đã tranh thủ được cảm tình của họ và giúp đỡ
họ nhiều việc, để dễ bề đi lại, để dễ bể che mất bọn Tây mà chuẩn bị cho anh em trốn trại.
Mỗi lần có tù trốn hoặc mỗi lần tổ chức đấu tranh với Tây đồn, bọn Tây cho lính
dùng báng súng và gây đánh chúng tôi như mưa, mấy người lính mà hàng ngày đã
“thân” với
chúng tôi lại
càng đánh chúng tôi nhiều hơn. Khi đi làm, chúng tôi hỏi họ tại sao lại đánh
đau thế, đánh nhiều thế? Thì họ nói: “Ông quan cho đánh mà!” Hỏi tại sao ngày thường
giúp nhau nhiều, thân nhau thế mà lại đánh nhiều hơn? Trả lời: “Quen thân đánh nó mới
không giận” (!?) Trong trại còn có
một anh y tá cũng là “mọi”, tiếng là y tá nhưng quả thật trình độ và tay nghề đều quá kém, anh em phải đề
nghị Tây đồn giao thuốc cho tù tự quản lý và chữa trị cho nhau. Có anh Hoàng
Tường biết về thuốc, đã nhận làm việc này; tôi được làm phụ cho anh Tường. Sau đó, anh được
tha trước, tôi “lên thay” anh. Suốt thời gian ở tù, tôi nhớ đã từng tiêm đến 3.000 mũi cho anh
em mà không có tai biến gì. (Khi chính mình ốm sốt rét thì chẳng ai tiêm cho,
phải tự tiêm lấy, mà lại tiêm ven mới khó chứ).
Trong trại tuy ăn uống có dồi dào như đã nói trên kia,
nhưng nhiều khi không ăn được vì sốt rét. Có khi cả trại đều sốt nằm rạp cả một
lượt, chỉ có anh Lê Văn Hiến là còn ngồi được, vì anh vốn là nhà thể thao và
lại có được cái màn gia đình gửi cho tránh muỗi. Anh em có nhiều người bị sốt
rét ác tính, như anh Hán, sốt đến đái ra máu mà chết. Tôi và anh Ngô Văn Kiếm
cùng bị sốt rét ác tính nặng. Anh Kiếm nổi điên nhảy tử tung cả lên, nhưng may sao sau đó lại khỏi
được. Tôi thì hôn mê sâu, nằm ly bì. Anh em cử người chăm sóc rất cẩn thân, hai người ngồi hai
bên canh chừng, thỉnh thoảng giúp trở mình và đổ nước cho uống, cứ hai tiếng
đồng hồ lại đổi kíp 2 người khác. Thuốc rất hiếm. Tôi đã có lúc gần tắt hơi, mắt thì trợn ngược lên rồi, anh em
đã đóng quan tài bằng ống tre lồ ô, hễ sợi bông ở mũi mà không lung lay nữa là
đem chôn. Tôi chợt tỉnh dậy, kêu: “Ối giời ôi, đau quá! Tôi ngủ được mấy tiếng
rồi?”. Mọi
người nói đã ba ngày ba đêm.
Thế nghĩa là tôi đã bị Diêm Vương chê, đuổi về dương gian đấy!
Trong trại tù, anh em sống rất có tổ chức, đã cử ra một Ban
Trật tự, có người đại diện đứng ra giao dịch với Tây đồn và mở cả lớp huấn
luyện chính trị, văn hoá (như anh Nguyễn Duy Trinh dậy lý luận). Trong nhà giam
có ông Tú Hiếu người Quảng Trị (có họ với chị Diệu Muội vợ anh Lê Chưởng) kiếm
được một cuốn sách chữ nho, thế là nhiều anh em xúm vào học, tôi cũng học thêm
được một ít chữ nho nữa. Còn có Ban Nhà bếp, mỗi phiên cử bốn người nấu cơm làm
thức ăn trong một thời gian khá lâu. Có Ban Làm dụng cụ, chúng tôi đã đấu tranh
đòi được một cái bễ lò rèn, rèn các công cụ phục vụ cho đời sống; chúng tôi đóng được cả
chiếc máy ép bùn bằng gỗ trắc nữa...
Trong trại có rất nhiều anh em có tay nghề, làm được rất
nhiều đồ dùng trong sinh hoạt hàng ngày. Có người dạy nghề đan mây, tôi cũng
học đan được một chiếc va ly bằng mây để chuẩn bị cho khi ra tù. Anh em còn dạy nhau làm
được cả bàn chải đánh răng và các đồ mỹ nghệ bằng sừng trâu, tôi cũng khá khéo
tay, làm được quản bút bằng sừng khá bóng đẹp bán được những một đồng bạc Đông Dương cho Tây
đồn. Có anh em biết nghề thợ may, sửa quần áo tù thành quần áo “diện” như ngoài phố. Tôi cũng
học may và cũng khâu được đẹp như máy. Những ngày Tết, trong trại đều tổ chức “ăn Tết” rất rôm rả, có liên hoan văn nghệ
và cỗ Tết hẳn hỏi. Cỗ Tết nấu rất ngon, giò nem ninh mọc chẳng kém gì ai, lại
có món bánh bằng bột hoàng tinh ăn ngon như bánh thánh. Tiết mục diễn kịch mới thật đáng nói. Vở kinh do anh Hà Thế Hạnh
sáng tác kiêm
đạo diễn, kiêm
diễn viên. Tôi được phân công trang trí sân khấu, vải làm phông màn thì gửi
tiền cho chinh bọn “nhà đồng” mua hộ. Tôi còn được sắm một vai con gái, quần áo mượn của vợ Tây đồn
(là người Việt). Lại lấy quả bóng cắt làm đôi độn vào ngực, rất là “ra dáng”. Vợ chồng Tây đồn xuống xem, cũng phải khen giống y như con gái.
Trong trại tù ngoài cái lần xuýt chết vì sốt rét, còn một
lần nữa tôi lại sống vì sốt rét. Số là, sáng hôm đó lẽ ra đến phiên tôi đi đô
thùng xia cùng với anh Trần Hải Kế (theo sự phân công của Ban Trật tự nội bộ - do anh em bầu ra – cứ mỗi tuần lễ cắt
cử hai người, hàng ngày khiêng thùng xia đi đổ rồi rửa sạch mang về), nhưng tôi
lại lên cơn sốt, anh Lê Văn Hiến (là người phụ trách Ban trật tự nội bộ, đồng thời là
người đại diện giao dịch với Tây đồn, vì anh giỏi tiếng Pháp) mới cử anh Thái
Văn Tam đi khiêng thay tôi. Khoảng chín giờ rười sáng thì nghe thấy có tiếng
súng nổ, lính chạy về báo với Tây đồn là có hai tù trốn lúc đi đổ thùng, đã bắn
chết. Như vậy là anh Thái Văn Tam đã thế mạng tôi. Ngay lập tức, anh em trong trại tổ chức tuyệt thực để
phân đối hành động dã man đó, đòi trừng trị những kẻ chủ mưu. Cuộc tuyệt thực
kéo dài khoảng một tuần lễ, mới đầu thì thấy rất khó chịu, đói cổn cào trong
ruột, nhưng đến ngày thứ tư thì chỉ thấy mệt, không thấy đói nữa. Chúng tôi
tuyệt thực được vài ngày thi Tây đồn xua linh xuống đánh túi bụi, tôi và anh Lê
Văn Hiến bị đánh nhiều hơn cả (chỉ vì “thân” với một số lính người dân tộc như đã nói ở trên). Bị đánh nhưng
chúng tôi cũng không bỏ cuộc, đến ngày thứ bảy thì có chỉ thị của Khâm sử Trung
Kỳ đưa xuống, hứa với anh em ta là sẽ không để xảy ra những việc như thế nữa,
hứa sẽ trừng trị những người gây ra việc đó, Cuộc tuyệt thực coi như đã được thắng lợi và kết
thúc. Sau bảy ngày nhịn đói, tôi và đồng chí Cương (người Diễn Châu) vẫn còn
xung phong ra suối gánh nước về để nấu cháo cho anh em ăn. Về sau mới biết bọn thực dân
Pháp có chủ trương bắn đi mỗi nhà tù vài ba người để khủng bố tinh thần anh em. (Ở trại Li Hi,
Ban-mê-thuột... cũng đều có hiện tượng như vậy.)
Nhưng việc khủng bố đó của thực dân Pháp vẫn không đe dọa
được anh em tù, chúng tôi vẫn tổ chức vượt ngục. Một lần vào đầu năm 1942,
chúng tôi bố trí cho mấy anh Nguyễn Duy Trinh, Chu Huy Mân, Tố Hữu, Hà Thế
Hạnh, Huỳnh Ngọc Huệ trốn trại. Ngày thường đã có kế hoạch dành bánh khảo cho anh
em ăn đường. Khi họ ra khỏi trại, tôi bố trí một số hình nộm người để trên
giường đắp chăn trùm đầu giả sốt rét. Lính “mọi” vào kiểm tra thấy đủ “đầu người” rồi là thôi. Chừng độ mấy hôm sau, ước
tính là anh em đã đi được xa rồi, anh Lê Văn Hiến mới “phát giác” việc tù trốn và đi báo
cáo với quan đồn. Bọn chúng sức cho dân chúng và lính đi tìm, còn ra lệnh hễ bắt được tù
trốn thì chặt một cánh tay.
Nhưng thực tế không ai bị chặt tay cả. Chỉ anh Hà Thế Hạnh
đã bị bắt ở Quy Nhơn và bị đưa trở lại trại.
Ở trại giam mấy năm trời, tôi chẳng được ai là người thân đến
thăm hỏi, thư từ cũng rất hiếm. Chỉ có hồi lên Đắc-tô được một năm, tôi nhận được
một lá thư nhà gửi lên, báo tin ông bác Cử mất, rồi bố tôi mất. Trong thư còn
nói chuyện chú Nhàn em út tôi lúc
đó mới 5 tuổi, cứ hay hỏi: “Chứ anh Vĩnh đi mô rồi mẹ?”. Cũng có tin anh Thọ tôi
thất nghiệp ở Hà Nội trở về quê đi dạy chữ quốc ngữ cho trẻ con làng Phương.
Anh đã lấy một người vợ mới là chị Xếp. (Anh lận đận về đường vợ con, hai người
vợ trước đều mất; nay chị Xếp chồng đi lính ngụy chết, chị giả vờ đến xin học và cố tán tỉnh để
lấy anh Thọ).
Khoảng cuối tháng 2 - 1945, tự nhiên bọn quan đồn thả ba người tù gồm
có tôi, anh Nguyễn Trường Châu và một anh nữa, tôi không nhớ tên. Thế là kết thúc 5 năm “an
trí” của tôi
ở nhà tù Kon-tum. Có thể nói, 5 năm ở tù, tôi thấy mình trưởng thành hơn hẳn,
trình độ chính trị được nâng lên, văn hoá nâng lên và biết thêm được nhiều việc, nhiều
nghề. Đúng là
những người cộng sản đã biến nhà tù đế
quốc thành trường học có giá trị như một trường “Bách nghệ” thời bấy giờ.
Tôi không hiểu tại sao khi thả chúng tôi, bọn để quốc lại
phải cho lính dẫn đi qua từng nhà tù như ở Kon-tum, Quy Nhơn và các nhà tù địa phương khác, có nơi
chúng bắt ở lại vài ngày rồi mới dẫn đi tiếp. Ra đến nhà lao Huế, nghỉ lại một
đêm, đêm sau (ngày 9 tháng 3 năm 1945) chợt nghe tiếng súng nổ ầm ầm. Hoá ra
Nhật đã đảo chính Pháp, bắn vào đồn Mang Cá. Một ngày sau thấy lính Nhật vào
tiếp quản nhà lao Thừa Phủ.
Lúc đó tôi giật mình, chợt nghĩ: bọn Nhật rất ghét cộng
sản, nếu nó phát hiện ra mình là tù cộng sản thì nguy với nó, liền bàn với mấy
anh tìm cách chuồn cho sớm. Mấy anh có gia đình ở Huế thì nhắn người nhà vào
bảo lãnh cho về. Tôi sực nhớ có bà Mây vẫn còn kinh doanh hoa ở Huế, mới gửi
thư ra nhắn bà Mây vào đón cho về (thư gửi người nhà các anh em bạn tù đến
thăm). Bà Mây đã đồng ý đón tôi về, cho ở nhà trồng hoa... Trong khi đó, tôi tranh
thủ tìm gặp được mấy anh em mình ở Đăk-tô về bàn nhau tiếp tục hoạt động. Lúc
đó Nhật đã lập được nội các Trần Trọng Kim rồi, anh em bàn chia nhau đi tìm anh Tôn Quang
Phiệt (anh Phiệt là nhân vật có tiếng tăm ở Huế và là một nhà hoạt động từ thời
Thanh niên cách mạng đồng chí hội) để vận động anh đứng ra kêu gọi Chính phủ
Trần Trọng Kim thả nốt các anh em đang bị giam ở Đắc-tô. Lấy lý do là: Chính phủ mới nên tha những người đó, vì họ là những
người chưa có án, hoặc đã mãn hạn tù. Ít ngày sau, cuộc vận động có kết quả, trại Đắc-tô
giải tán, anh em tù được giải phóng hết. Tôi cũng gặp lại anh Huỳnh Ngọc Huệ đã
vượt ngục từ trước. Chúng tôi cùng nhau tập hợp tổ chức được cuộc mít-tinh ở
chùa Thiên Mụ, tuyên truyền giải thích chủ trương chính sách của Việt Minh, kêu
gọi đồng bào tham gia Việt Minh.
Khoảng đầu tháng 7 năm 1945, tôi nói với bà Mây xin về thăm
gia đình ở quê. Bà Mây đồng ý, cho ít tiền và quà Huế (kẹo mè xửng, cá mực khô)
đem về. Về đến nhà, lúc đó chỉ còn bà dì, vợ chồng anh Thọ và chú em Nhàn. Ở
nhà đã làm được một gian nhà tranh vách đất nhỏ trên nền cũ của gia đình. Tôi
cũng đã đi thăm hỏi bà con anh em ở quê nữa. Sau đó tôi nghĩ, trước kia mình đã
hoạt động ở địa bàn Hà Nội, nay về Hà Nội đi tìm Đảng. Để có chỗ ăn ở, tôi phải
tìm về nhà ông Đòng (cha mẹ nuôi cũ), lại xin ăn do làm giúp. Gia đình họ cũng
biết tôi đi tù về nhưng vẫn chưa chấp.
Ra đến Hà Nội, việc đầu tiên là tôi tìm đến anh Phạm Ngọc
Mậu bạn thợ in cũ hỏi về tin tức của An, mới biết An bị giam ở Hỏa Lò. Tôi mua bánh vào
Hỏa Lò thăm. Cuộc gặp nhau ngăn ngủi sao mà xúc động bùi ngùi!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét